Ngày 9/10/2025, Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn ký Quyết định số 2229/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050.
Thủ tướng Chính phủ chính thức ban hành Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050.
Chiến lược xác định logistics là ngành kinh tế quan trọng, có giá trị gia tăng cao và là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược nhằm phát triển dịch vụ logistics Việt Nam bền vững, hiệu quả, chất lượng và có giá trị gia tăng cao, năng lực cạnh tranh tốt, phát huy lợi thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành dịch vụ logistics hằng năm đạt 12% - 15%
Trên cơ sở tận dụng tối đa lợi thế vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế biển, xu thế chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, Chiến lược đề ra các mục tiêu cụ thể:
Trong giai đoạn 2025 - 2035, tỷ trọng giá trị tăng thêm của dịch vụ logistics trong tổng sản phẩm trong nước đạt 5% - 7%. Tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành dịch vụ logistics hằng năm đạt 12% - 15%. Tỷ lệ doanh nghiệp thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 70% - 80%. Chi phí logistics so với tổng sản phẩm trong nước giảm xuống tương đương 12% - 15%; xếp hạng theo Chỉ số hiệu quả logistics (LPI - do Ngân hàng Thế giới công bố) trong nhóm 40 quốc gia và vùng lãnh thổ hàng đầu. Số lượng doanh nghiệp dịch vụ logistics sử dụng các giải pháp chuyển đổi số đạt 80% số doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Dịch vụ logistics phát triển hiệu quả theo hướng giảm phát thải, chuyển đổi sang các nguồn năng lượng xanh. 70% người lao động trong ngành dịch vụ logistics được đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong đó 30% có trình độ đại học trở lên. Trong giai đoạn này xây dựng được ít nhất 05 trung tâm dịch vụ logistics hiện đại ngang tầm quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với chuỗi cung ứng trong khu vực và quốc tế.
Giai đoạn đến năm 2050, tỷ trọng giá trị tăng thêm của dịch vụ logistics trong tổng sản phẩm trong nước đạt 7% - 9%. Tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành dịch vụ logistics hằng năm đạt 10% - 12%. Tỷ lệ doanh nghiệp thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 80% - 90%. Chi phí logistics so với tổng sản phẩm trong nước giảm xuống tương đương 10% - 12%. Xếp hạng theo Chỉ số hiệu quả logistics (LPI - do Ngân hàng Thế giới công bố) trong nhóm 30 quốc gia và vùng lãnh thổ hàng đầu.
Số lượng doanh nghiệp dịch vụ logistics sử dụng các giải pháp chuyển đổi số đạt 100% số doanh nghiệp logistics Việt Nam. Dịch vụ logistics tiếp tục phát triển hiệu quả theo hướng giảm phát thải, góp phần đưa phát thải ròng của quốc gia về 0. 90% người lao động trong ngành dịch vụ logistics được đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong đó 50% có trình độ đại học trở lên và xây dựng được ít nhất 10 trung tâm dịch vụ logistics hiện đại ngang tầm quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với chuỗi cung ứng trong khu vực và quốc tế.
Hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại
Chiến lược đưa ra định hướng tạo đột phá trong xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ logistics, thúc đẩy hội nhập quốc tế, tăng cường quản lý nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật đối với dịch vụ logistics theo cơ chế thị trường, thích hợp với trình độ phát triển kinh tế đất nước và phù hợp với thông lệ, luật pháp quốc tế.
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng, hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại, chú trọng hạ tầng giao thông vận tải, hạ tầng thương mại và hạ tầng số, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thúc đẩy liên kết các ngành, lĩnh vực, các vùng lãnh thổ, khu vực và quốc tế phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, nội vùng, liên vùng và cả nước theo từng giai đoạn phát triển làm cơ sở để phát triển dịch vụ logistics.
Đồng thời, xây dựng nguồn hàng, phát triển thị trường logistics, bảo đảm tăng trưởng bền vững ngành dịch vụ logistics; nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp dịch vụ logistics, đồng thời nâng cao chất lượng và xanh hóa các hoạt động dịch vụ logistics dựa trên nền tảng số. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong lĩnh vực dịch vụ logistics, nâng cao hiệu quả hoạt động logistics gắn với sản xuất, xuất nhập khẩu, lưu thông phân phối trong nước và quốc tế.
Cùng với đó là phát triển nguồn nhân lực logistics chất lượng cao nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ logistics. Nâng cao vai trò của các hiệp hội và các doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực dịch vụ logistics, thúc đẩy hình thành các chuỗi cung ứng hiện đại, phát triển đa dạng các dịch vụ logistics giá trị gia tăng đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế, đưa Việt Nam trở thành trung tâm trung chuyển và phân phối hàng hóa của thế giới.
Chiến lược sẽ là động lực lớn giúp cộng đồng doanh nghiệp nắm bắt các cơ hội và phát triển ngành dịch vụ logistics của đất nước theo hướng mạnh, nhanh, xanh, số và bền vững.
9 nhóm giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm
Để hiện thực hóa mục tiêu, Chiến lược đưa ra 9 nhóm giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước:
Một trong những giải pháp then chốt là xây dựng và thúc đẩy mô hình hải quan số, hải quan thông minh. Điều này giúp rút ngắn thời gian thông quan, giảm chi phí và minh bạch hóa quy trình. Ngoài ra, việc ban hành bộ tiêu chí phân loại trung tâm logistics sẽ tạo nền tảng cho việc quy hoạch, quản lý hiệu quả và thu hút đầu tư.
Chiến lược nhấn mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến logistics nhằm tạo môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng. Đặc biệt, cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng chứng từ điện tử, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế cho hoạt động logistics. Qua đó tạo cơ sở pháp lý vững chắc, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ vào lĩnh vực logistics.
Trong đó, ưu tiên hình thành các trung tâm logistics tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng, gắn với cảng biển, sân bay quốc tế. Giải pháp phát triển đội tàu biển container quốc gia cũng rất quan trọng, tăng tính chủ động trong vận tải quốc tế.
Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại:
Chiến lược đặt trọng tâm vào việc hình thành các trung tâm logistics quy mô lớn, hiện đại tại các vùng kinh tế trọng điểm; đầu tư nâng cấp hệ thống cảng biển, cảng hàng không, cảng cạn và hệ thống đường sắt liên vận quốc tế. Đồng thời, ưu tiên phát triển hạ tầng logistics phục vụ thương mại điện tử, kho thông minh và logistics đô thị xanh nhằm giảm chi phí vận tải và nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng.
Thứ ba, thúc đẩy liên kết vùng trong phát triển dịch vụ logistics:
Chiến lược xác định hình thành các vùng động lực logistics tại Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và miền Trung, trong đó Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là các cực tăng trưởng chính. Các hành lang kinh tế trọng điểm sẽ được kết nối bằng hệ thống hạ tầng hiện đại, qua đó tăng cường liên kết vùng và quốc tế.
Thứ tư, xây dựng nguồn hàng, phát triển thị trường logistics:
Việc thu hút đầu tư từ các tập đoàn sản xuất và phân phối lớn, xây dựng khu thương mại tự do và khu phi thuế quan, sẽ giúp Việt Nam trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa của khu vực. Đồng thời, Chiến lược khuyến khích phát triển dịch vụ logistics chuyên biệt cho nông sản, công nghiệp chế biến và thương mại điện tử xuyên biên giới.
Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp logistics:
Một giải pháp nổi bật là xây dựng Chương trình chuyển đổi số và Chương trình chuyển đổi xanh trong logistics. Chuyển đổi số giúp tối ưu hóa lộ trình, tự động hóa kho bãi; còn chuyển đổi xanh tập trung vào việc sử dụng năng lượng tái tạo, phát triển phương tiện vận tải ít phát thải, qua đó góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Chiến lược hỗ trợ hình thành các doanh nghiệp logistics mạnh, có khả năng cung ứng dịch vụ tích hợp 4PL, 5PL, vươn ra thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chú trọng kết nối doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI để tận dụng công nghệ, kinh nghiệm quản lý và mạng lưới toàn cầu.
Thứ sáu, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh:
Chiến lược nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, blockchain vào quản lý chuỗi cung ứng; xây dựng hải quan số, hải quan thông minh; phát triển logistics xanh nhằm giảm phát thải, tiến tới trung hòa carbon. Đây là giải pháp mang tính đột phá để nâng cao hiệu quả và tính bền vững.
Thứ bảy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:
Chiến lược đặt mục tiêu 70-90% lao động ngành logistics được đào tạo chuyên môn, trong đó một nửa có trình độ đại học trở lên vào năm 2050. Các chương trình đào tạo đa cấp độ sẽ được triển khai, kết nối với các cơ sở đào tạo quốc tế nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng thực tiễn cho lực lượng lao động.
Đáng chú ý là việc ban hành bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia về logistics, làm cơ sở cho đào tạo và đánh giá nhân lực. Song song, việc hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu quốc tế sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo, tạo ra nguồn nhân lực có trình độ, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu hội nhập toàn cầu.
Thứ tám, phát huy vai trò hiệp hội và doanh nghiệp tiên phong:
Chiến lược khuyến khích hình thành các doanh nghiệp logistics tiên phong, có khả năng dẫn dắt thị trường và hỗ trợ doanh nghiệp khác cùng phát triển. Các hiệp hội logistics sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, thúc đẩy hình thành chuỗi cung ứng hiện đại, tổ chức các diễn đàn, hội nghị, triển lãm quốc tế nhằm quảng bá logistics Việt Nam.
Thứ chín, các nhiệm vụ khác:
Bộ Công Thương là cơ quan chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và hiệp hội liên quan để triển khai, hướng dẫn xây dựng Kế hoạch hành động, đồng thời tổ chức sơ kết, tổng kết, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Các bộ, ngành khác được phân công nhiệm vụ cụ thể, từ đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực, xây dựng tiêu chuẩn, đến phát triển mô hình hải quan số, khu thương mại tự do.
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), việc ban hành Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025-2035, tầm nhìn đến 2050 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chiến lược không chỉ tạo ra khuôn khổ chính sách đồng bộ, mà còn mở ra cơ hội đưa Việt Nam trở thành trung tâm logistics tầm cỡ khu vực và quốc tế trong những thập kỷ tới, góp phần giảm chi phí, nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng và thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế.
Bên cạnh những cơ hội, việc triển khai Chiến lược cũng đặt ra không ít thách thức. Đó là yêu cầu huy động nguồn vốn lớn cho phát triển hạ tầng, sự cạnh tranh gay gắt từ các trung tâm logistics trong khu vực, cũng như áp lực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để kỳ vọng trở thành trung tâm logistics tầm cỡ khu vực vào năm 2035, và vươn ra thế giới vào năm 2050. Chiến lược này không chỉ góp phần giảm chi phí, nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Việt Hằng