“Việc tuân thủ CBAM có thể mở ra con đường cho các doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa xuất khẩu và củng cố vị thế tại thị trường châu Âu - một thị trường đặt môi trường làm trung tâm. Mặc dù, quá trình chuyển đổi không đơn giản, nhất là đối với các ngành công nghiệp phát thải nhiều carbon, nhưng đó cũng là một cơ hội cho những doanh nghiệp tiên phong và có chiến lược. Điều này sẽ không chỉ giảm thiểu rủi ro, mà còn giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế xanh toàn cầu”, bà Duyên nhấn mạnh.
Bàn về vấn đề này, bà Hồ Thị Quyên, Phó giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu đang nỗ lực chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và phát triển bền vững, EU đã triển khai CBAM nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sản xuất sạch. Đây không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
CBAM không chỉ yêu cầu minh bạch về lượng phát thải carbon trong quá trình sản xuất, mà còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ sạch và quy trình sản xuất thân thiện với môi trường. Chính vì vậy, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình nâng cao năng lực xuất khẩu xanh để tuân thủ quy định và tăng cường năng lực cạnh tranh và mở rộng vào các thị trường lớn, đặc biệt là châu Âu.
Theo số liệu báo cáo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), tính chung 4 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu hàng hóa đạt 276,89 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó xuất khẩu tăng 13,0%, nhập khẩu tăng 18,6%. Riêng xuất khẩu sang thị trường 27 nước EU tiếp tục ghi đậm dấu ấn trong 4 tháng đầu năm 2025, tăng gần 13% so với cùng kỳ, đạt 18,5 tỷ USD, là một trong những thị trường xuất khẩu đạt mức tăng trưởng cao của nước ta. Điều này cho thấy EU tiếp tục là thị trường xuất khẩu quan trọng và tiềm năng đối với Việt Nam.
Theo nhận định của các chuyên gia, việc tuân thủ CBAM đòi hỏi sự chủ động rất cao từ phía doanh nghiệp như đầu tư vào công nghệ sạch, cải thiện quy trình sản xuất, xây dựng hệ thống quản lý phát thải và nâng cao năng lực báo cáo, xác minh dữ liệu phát thải. Việc chuyển đổi sản xuất xanh không chỉ có ý nghĩa quan trọng với mỗi doanh nghiệp mà còn tác động tới cả chuỗi cung ứng.
Ông William L Nolten, Thành viên Ban Quản trị Rexil Asia nhấn mạnh, CBAM là một công cụ bắt buộc, tập trung vào lượng khí thải carbon ở cấp độ sản phẩm (PCF) đối với các mặt hàng cụ thể nhập khẩu vào EU, khác với GHG Protocol mang tính tự nguyện và đánh giá ở cấp độ doanh nghiệp (CCF). Sự ra đời của CBAM, cùng với các quy định khác như Quy định Ngăn chặn Phá rừng của EU (EUDR) và các đạo luật tương tự ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, đang tạo ra áp lực ngày càng tăng đối với các doanh nghiệp quốc tế, nhất là các nước đang phát triển trong việc quản lý và báo cáo phát thải.
“CBAM nhìn chung đặt ra thách thức cho các nhà xuất khẩu Việt Nam, bao gồm các yêu cầu ngày càng cao về báo cáo phát thải, sự phức tạp trong thu thập số liệu và mức độ cạnh tranh gia tăng khi các nhà nhập khẩu EU sẽ ưu tiên hàng hóa có cường độ phát thải thấp. Để đối phó các quy định mới, doanh nghiệp Việt cần chủ động tìm hiểu kỹ về CBAM, rà soát quy trình sản xuất và xây dựng cơ sở dữ liệu về phát thải khí nhà kính. Nhất là việc thực hiện kiểm kê phát thải và cường độ phát thải trên mỗi sản phẩm, từ đó lên kế hoạch giảm phát thải một cách hiệu quả, ví dụ như sử dụng năng lượng tái tạo và tối ưu hóa công nghệ”, ông William L Nolten khuyến nghị.
Hiện rất nhiều doanh nghiệp có quy mô trung bình lớn, thậm chí là doanh nghiệp nhỏ của Việt Nam cũng đang trong tiến trình chuyển đổi xanh nhằm thúc đẩy quá trình phi carbon hóa. Về vấn đề này, bà Nina Miron Claudia, chuyên viên chính sách Tổng cục Thuế và Liên minh Hải quan châu Âu của Ủy ban châu Âu (EC) thông tin thêm, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu từ các quốc gia đang phát triển, EC đã đề xuất các biện pháp đơn giản hóa CBAM, như giới thiệu ngưỡng tối thiểu mới (de minimis) là 50 tấn/nhà nhập khẩu/năm đối với tổng lượng nhập khẩu sắt thép, nhôm, xi măng và phân bón, nhằm giảm gánh nặng hành chính cho các doanh nghiệp nhỏ mà vẫn đảm bảo hiệu quả về môi trường. CBAM khẳng định sự cởi mở đối với các nỗ lực phi carbon hóa ở các nước thứ ba thông qua phương pháp luận “phát thải thực tế” và khấu trừ giá carbon đã trả ở các nước này.
Theo Quyết định số 232/QĐ-TTg, Việt Nam sẽ triển khai thí điểm hệ thống giao dịch phát thải (ETS), tạo nền tảng cho việc định giá carbon trong nước. Đồng thời, Thủ tướng cũng giao trách nhiệm và yêu cầu các bộ và cơ quan liên quan thành lập, phát triển thị trường carbon phù hợp với pháp luật và điều kiện thực tiễn, định hướng phát triển quốc gia, cam kết quốc tế về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Tuyết Anh