Đá cũ An Khê hướng tới danh hiệu Di sản văn hóa thế giới

Đá cũ An Khê hướng tới danh hiệu Di sản văn hóa thế giới
7 giờ trướcBài gốc
Từ phát hiện khảo cổ chấn động ấy, Chính phủ đã giao UBND tỉnh Gia Lai chủ trì Chương trình nghiên cứu tổng thể di tích Rộc Tưng-Gò Đá, Đá cũ An Khê (giai đoạn 2026-2030). Chương trình còn hướng đến mục tiêu dài hơi: xây dựng hồ sơ khoa học đề nghị UNESCO công nhận hệ thống di tích Đá cũ An Khê là Di sản văn hóa thế giới.
Hành trình ấy không chỉ cần chuyên môn khảo cổ, mà còn đòi hỏi khoa học hiện đại, kinh nghiệm quốc tế và cả quyết tâm chính trị. Phóng viên Báo Gia Lai đã có cuộc trao đổi với các nhà khoa học đầu ngành để làm rõ hơn chặng đường phía trước.
PGS.TS Nguyễn Khắc Sử, Viện Khảo cổ học Việt Nam: “Rộc Tưng - Gò Đá là di sản của nhân loại”
Những di vật cổ xưa nằm trong tầng văn hóa nguyên vẹn là phát hiện khảo cổ quan trọng tại Rộc Tưng-Gò Đá. Ảnh: Huỳnh Bá Tính
*Thưa ông, nhiều người gọi Đá cũ An Khê là “bước ngoặt” của khảo cổ học Việt Nam. Vậy giá trị lớn nhất nằm ở đâu, có ý nghĩa như thế nào đối với khảo cổ học trong nước và quốc tế?
Điều quý giá nhất ở An Khê là chúng ta đã phát hiện được những di vật cổ xưa nằm nguyên vẹn trong lòng đất-bằng chứng xác thực cho sự hiện diện của người đứng thẳng (Homo erectus) cách nay 80-85 vạn năm. Đây không chỉ là dấu mốc mở đầu lịch sử Việt Nam, mà còn đưa Đông Nam Á vào bản đồ tiến hóa nhân loại, khẳng định phương Đông không hề đi sau phương Tây.
Phát hiện ở An Khê đã làm thay đổi cách nhìn của giới khảo cổ quốc tế về nguồn gốc loài người. Nếu trước đây bản đồ tiến hóa chủ yếu nhấn mạnh phương Tây hay châu Phi, thì nay An Khê đã được bổ sung vào bản đồ sơ kỳ Đá cũ của thế giới.
Kết quả nghiên cứu đã được Viện Hàn lâm Khoa học Nga đưa vào tập 3 bộ Lịch sử thế giới, cũng như được đưa vào chương mở đầu của Lịch sử Việt Nam (Quốc sử). Đặc biệt, hai hội thảo quốc tế tổ chức tại Gia Lai đều thống nhất niên đại của Đá cũ An Khê ngang bằng với di chỉ Bách Sắc (Trung Quốc) - một trong những “cái nôi” của nhân loại.
Rộc Tưng-Gò Đá cũng đã được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt, 10 hiện vật Đá cũ tiêu biểu được công nhận là Bảo vật quốc gia. Đây không chỉ là giá trị của riêng Việt Nam, mà là đóng góp cho lịch sử tiến hóa chung của nhân loại.
* Để tiến tới hồ sơ đề cử UNESCO, theo ông nhiệm vụ trọng tâm sắp tới là gì?
Điều quan trọng trước mắt là xác định rõ vùng lõi và vùng đệm. Trước hết, cần những cuộc khảo sát và khai quật mới, tập trung vào những địa điểm tiêu biểu để làm sáng rõ nơi đây là “buổi bình minh” của loài người. Sau đó, mở rộng ra vùng đệm để hoàn thiện bức tranh tiến hóa liên tục của con người: từ sơ kỳ, hậu kỳ Đá cũ, tới Đá mới và Kim khí.
Một điểm nữa là không thể thiếu hợp tác quốc tế. Giai đoạn trước, chúng ta đã có 5 năm hợp tác rất thành công với các chuyên gia Nga. Nhưng để xây dựng hồ sơ di sản thế giới, chúng ta cần mời thêm những nhà khảo cổ hàng đầu, cũng như các chuyên gia có kinh nghiệm tham gia xây dựng, thẩm định hồ sơ UNESCO. Họ sẽ giúp xác định rõ nhất tiêu chí nào của An Khê đủ sức thuyết phục nhất để trình ra thế giới.
Đây không chỉ là trách nhiệm của Gia Lai hay của riêng Việt Nam. Khi được công nhận, An Khê sẽ là di sản chung của nhân loại, nơi đánh dấu bước chân đầu tiên của con người trên mảnh đất Đông Nam Á. Và đó chính là tầm vóc mà chúng ta cần hướng tới”.
TS Lưu Anh Tuyên, Phụ trách Phòng Vật lý và Phân tích Hạt nhân (Trung tâm Hạt nhân TP. HCM), Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam: “Khoa học hạt nhân giúp An Khê có tiếng nói thuyết phục với quốc tế”.
Các nhà khoa học trao đổi về niên đại các di vật Đá cũ bên lề hội thảo quốc tế về Rộc Tưng-Gò Đá tổ chức tại An Khê. Ảnh: Huỳnh Bá Tính
*Thưa ông, ngành Năng lượng Nguyên tử có thể hỗ trợ gì cho hồ sơ di sản của An Khê?
Niên đại của đá cũ An Khê trước đây đã được xác định bằng phương pháp định tuổi Kalium–Argon trên các mảnh thiên thạch Tektite (tectit). Niên đại 80 vạn năm của các mảnh tectit tồn tại lẫn giữa các lớp văn hóa khảo cổ ở An Khê cung cấp thông tin có giá trị liên quan đến thời gian hình thành giai đoạn văn hóa đó. Tuy nhiên, đây vẫn là cách xác định niên đại một cách gián tiếp chứ không phải niên đại trực tiếp của lớp văn hóa đá cũ An Khê.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, chúng ta có thể bổ sung nhiều kỹ thuật phân tích hạt nhân hiện đại để xác định trực tiếp niên đại của các công cụ đá và lớp trầm tích trong các lớp văn hóa đó.
Cụ thể, trong số các phương pháp hạt nhân được biết đến, chúng tôi đã cải tiến, công bố quốc tế và ứng dụng rất thành công phương pháp phân tích Nhiệt phát quang cải tiến (iTLD) để xác định trực tiếp niên đại của các mẫu gạch và đá cổ tại các khu di tích như Óc Eo-Ba Thê (tỉnh An Giang, dự án do Quỹ VINF tài trợ), Vòng thành Đá trắng (Bà Rịa-Vũng Tàu), Mái đá Ngườm (Thái Nguyên), Thánh địa Cát Tiên (Lâm Đồng), khu khảo cổ Chang Kuang (Đài Loan).
Đối với với đá cũ An Khê, phương pháp phân tích iTLD sẽ giúp chúng ta xác định trực tiếp được niên đại của các công cụ đá kể từ sau khi chúng bị bỏ lại cũng như xác định chính xác niên đại của lớp trầm tích đã chôn vùi các công cụ này.
Bên cạnh đó các phân tích tỉ số đồng vị bền cho các mẫu trầm tích và công cụ tại An Khê có thể giúp chúng ta xác định được nguồn gốc và khí hậu cổ địa sinh ở giai đoạn hình thành lớp văn hóa, từ đó giải thích được quá trình thay đổi hành vi của con người liên quan đến chuỗi thức ăn và phát triển công cụ để tồn tại.
* Điều này có ý nghĩa như thế nào đối với hồ sơ di sản?
“UNESCO rất coi trọng tính xác thực và toàn vẹn của di sản và luôn đánh giá hồ sơ dựa trên bằng chứng khoa học vững chắc. Để chứng minh một di chỉ hay khu vực khảo cổ có tuổi đời hàng chục vạn năm cách ngày nay thì các nhà khoa học không chỉ dựa trên các quan sát định tính hoặc phân tích niên đại gián tiếp bởi vì ảnh hưởng của xáo trộn hàng chục vạn năm thường làm cho các kết quả gây tranh cãi.
Ngược lại, với hai dữ liệu niên đại trực tiếp được xác định từ chính công cụ đá và lớp trầm tích văn hóa khi sử dụng phương pháp iTLD của ngành hạt nhân, chúng ta có thể khẳng định được niên đại thực của di tích xoay quanh trục 80 vạn năm, từ đó củng cố cơ sở khoa học trực tiếp và vững chắc cho hồ sơ một cách thuyết phục để đệ trình UNESCO công nhận là di sản thế giới.
Việc áp dụng các phương pháp hạt nhân sẽ giúp hồ sơ của An Khê không chỉ thuyết phục mà còn nâng tầm nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam, do các nhà khoa học Việt Nam làm chủ nghiên cứu. Kết quả niên đại đồng thời có thể đối chiếu với những nghiên cứu tương tự ở châu Âu, châu Phi hay Trung Quốc. Điều này giúp Đá cũ An Khê có thể so sánh ngang hàng với các di chỉ nổi tiếng thế giới về thời đại Đá cũ”.
*Ông có nhắc đến phương pháp phân tích tỉ số đồng vị bền để xác định khí hậu cổ địa sinh. Cụ thể đóng góp của phương pháp này ra sao trong nghiên cứu đá cũ An Khê và hồ sơ trong giai đoạn tới?
Con người tiền sử sẽ thay đổi hành vi sống khi môi trường, thực vật và động vật biến đổi. Các thông tin đó lưu trữ trong các lớp trầm tích ở An Khê và chúng ta có thể xác định thông qua phân tích tỉ số đồng vị bền, một phương pháp phân tích hiện đại của ngành hạt nhân.
Thông tin từ phân tích này giúp chúng ta khẳng định thêm về nguyên nhân và động lực cho sự phát triển các công cụ đá của người tiền sử ở An Khê cách đây hàng chục vạn năm, đặc biệt là giai đoạn thay đổi của thời kỳ tiền băng hà Mindel.
Hơn thế nữa, phân tích tỉ số đồng vị bền cho ta biết nguồn gốc của các công cụ đá và trả lời câu hỏi liệu các công xưởng đá ở An Khê chỉ phục vụ cho cộng đồng cư dân cổ nơi đây hay số lượng lớn các công cụ đó còn phục vụ để trao đổi với các cộng đồng cổ khác bởi vì chúng ta đã thấy một vài công cụ tương tự dường như đã xuất hiện lác đác ở các khu vực khác, cả Tây Nguyên lẫn đồng bằng? Các dữ liệu này là vô cùng quý giá khi lập hồ sơ đệ trình UNESCO đối với An Khê.
PGS.TS Bùi Chí Hoàng, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, Phó Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam: “An Khê có nhiều lợi thế để hoàn thiện hồ sơ Di sản thế giới”
Di tích quốc gia đặc biệt Rộc Tưng-Gò Đá chụp từ trên cao. Ảnh: Huỳnh Bá Tính
* Thưa ông, với kinh nghiệm thực tiễn tham gia xây dựng hồ di sản thế giới, ông có lưu ý gì cho An Khê?
Tôi phải nói ngay, đây là một hành trình cực kỳ gian nan. Từ năm 2012, tôi đã đề xuất lập hồ sơ cho di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo (tỉnh An Giang), nhưng đến nay vẫn mới chỉ có bản tóm tắt gửi cho UNESCO, hồ sơ chính thức thì chưa hoàn thiện. Bài học rút ra là, không chỉ cần tri thức khoa học, mà còn phải có quyết tâm chính trị rất lớn, quản lý rất chặt chẽ và một lộ trình khoa học rõ ràng. Nếu không, chúng ta dễ rơi vào tình trạng kéo dài, thiếu đồng bộ.
* Vậy ông đánh giá thế nào về điều kiện của An Khê hiện nay?
May mắn là Chính phủ đã giao trực tiếp cho UBND tỉnh Gia Lai xây dựng chương trình nghiên cứu tổng thể, không qua trung gian. Điều này giúp tránh được sự chồng chéo, rút ngắn thời gian. Đồng thời, chúng ta cũng rút được kinh nghiệm từ một số hồ sơ “làm mãi không xong” ở các di tích khác. Bên cạnh đó, địa phương đã có sự chuẩn bị đáng ghi nhận, từ con số 0, nay đã có hệ thống đường sá, có bảo tàng mở, và một tinh thần quyết tâm đáng quý.
Tôi cho rằng cần sớm thành lập Ban chỉ đạo và Hội đồng tư vấn khoa học gồm những chuyên gia đầu ngành, có uy tín và tâm huyết. Đây sẽ là “bộ lọc” để thẩm định kết quả nghiên cứu, đồng thời đề xuất quyết sách phù hợp.
Nếu Gia Lai tận dụng được những lợi thế đang có, Đá cũ An Khê hoàn toàn có cơ hội trở thành Di sản văn hóa thế giới. Tuy nhiên, cũng phải chuẩn bị tinh thần cho một hành trình dài và đầy thử thách. Hồ sơ di sản thế giới không thể hoàn thành trong một vài năm, mà đòi hỏi sự kiên trì, tính khoa học nghiêm túc và sự đồng thuận cao từ nhiều phía.
HOÀNG NGỌC
Nguồn Gia Lai : https://baogialai.com.vn/da-cu-an-khe-huong-toi-danh-hieu-di-san-van-hoa-the-gioi-post564702.html