Ngày 28-11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Quy hoạch (sửa đổi); Việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An phát biểu thảo luận. Ảnh: Phạm Thắng
Góp ý vào việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đại biểu Trịnh Xuân An (đoàn Đồng Nai) đề xuất ngoài các nội dung đã được đề cập, cần rà soát các vấn đề mới để gắn quy hoạch với an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an ninh kinh tế…
Bên cạnh đó, sau đợt mưa lũ gây hậu quả nặng nề trên diện rộng vừa qua, đại biểu Trịnh Xuân An cũng kiến nghị trong điều chỉnh quy hoạch, cần nghiên cứu để bổ sung các vấn đề về môi trường, tài nguyên, quản trị rủi ro và phòng chống thiên tai.
Đại biểu Trịnh Xuân An đề xuất các quy hoạch về các dự án trọng điểm quốc gia, quy hoạch đô thị, quy hoạch các vùng miền… phải gắn với quản trị rủi ro thiên tai. Đồng thời, cần đầu tư thêm hệ thống quan trắc để giảm thiểu hậu quả thiên tai.
Với trận lũ lịch sử ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên, đại biểu Trịnh Xuân An kiến nghị khi gắn quản trị rủi ro thiên tai của quy hoạch, cần cập nhật các số liệu mới, đỉnh lũ mới để có thiết kế quy hoạch phù hợp. Đặc biệt, cần quan tâm đến vấn đề các hồ chứa, thủy điện.
Đại biểu đoàn Đồng Nai đề xuất rà soát lại toàn bộ hệ thống thủy điện nhỏ, đánh giá lại quy trình xả lũ, để tránh quy trình xả lũ thì đúng nhưng hậu quả thì nặng nề.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân (đoàn TPHCM) cũng đồng tình với quan điểm nêu trên và đề nghị trong điều chỉnh quy hoạch tổng thể quốc gia, cần quan tâm đến các vấn đề về biến đổi khí hậu, thời tiết, mưa lũ, hạn hán gây ra hậu quả nặng nề thời gian qua.
Ông cũng đề nghị trong quy hoạch tổng thể quốc gia, cần thể hiện rõ các lợi thế quốc gia như kinh tế biển, nông nghiệp, văn hóa và du lịch. Bên cạnh đó, quy hoạch tổng thể quốc gia nhưng phải phát huy được các tiềm năng, lợi thế của 34 tỉnh, thành phố và 6 vùng động lực trên cả nước.
Đại biểu Quốc hội Phạm Trọng Nhân. Ảnh: Phạm Thắng
Đại biểu Phạm Trọng Nhân (đoàn TPHCM) cho rằng khi chúng ta quyết định giảm từ 63 xuống 34 tỉnh, tổ chức lại chính quyền theo mô hình 2 cấp, đó không chỉ là việc kẻ lại đường ranh hành chính, mà là cơ hội thiết kế lại không gian phát triển.
Trong bối cảnh ấy, theo ông Nhân, quy hoạch tổng thể quốc gia không thể chỉ điều chỉnh cho khớp bản đồ mới, mà phải trả lời được câu hỏi: Những cực tăng trưởng nào sẽ kéo cả nền kinh tế lên mức hai con số, và Luật Quy hoạch đặt nó vào vị trí nào trong cấu trúc quốc gia?
Từ đó, đại biểu Nhân đề xuất một số yêu cầu đối với Quy hoạch tổng thể quốc gia và Luật Quy hoạch. Trước hết, luật hóa khái niệm "trung tâm tăng trưởng vùng".
"Khi chúng ta quyết định giảm từ 63 xuống 34 tỉnh, thành phố, đây thực chất là bản đồ năng suất, không phải bản đồ địa giới. Tiêu chí không thể dựa vào địa giới hành chính, mà phải dựa trên năng lực công nghiệp - dịch vụ hàm lượng công nghệ, kết nối hạ tầng - logistics, mật độ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, tỉ trọng kinh tế số và năng suất lao động"- ông Phạm Trọng Nhân nói.
Cùng với đó, thiết chế Hội đồng Điều phối vùng quốc gia phải được luật hóa trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, có quyền điều phối hạ tầng vùng, chia sẻ và bắt buộc dùng chung dữ liệu, thống nhất danh mục ưu tiên đầu tư vùng để tránh tình trạng 5 tỉnh cùng xin làm cảng trung chuyển, sân bay quốc tế mà không dựa trên mô hình năng suất và hiệu quả vùng.
Cuối cùng, việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia phải ăn khớp với mô hình 34 tỉnh, thành và 2 cấp chính quyền, nghĩa là các tỉnh mới sau sáp nhập phải được thiết kế lại cấu trúc đô thị - nông thôn - công nghiệp - dịch vụ dựa trên dữ liệu dân cư, năng suất, rủi ro khí hậu; không thể chỉ "ghép hai quy hoạch cũ lại với nhau" và xem như hoàn thành, như vùng TPHCM rất cần quy hoạch và cơ chế cho một siêu đô thị động lực trung tâm.
Minh Chiến - Văn Duẩn