Đánh thuế nhà đầu tư tiền số thế nào?

Đánh thuế nhà đầu tư tiền số thế nào?
một ngày trướcBài gốc
Hiệp hội Blockchain Việt Nam ước tính việc áp thuế 0,1% trên mỗi giao dịch tiền mã hóa có thể mang lại hơn 800 triệu USD/năm cho ngân sách. Ảnh: RMIT.
Việt Nam đang tiến gần hơn tới việc hợp pháp hóa các giao dịch tiền mã hóa. Động thái này không chỉ đem đến khung pháp lý rõ ràng cho thị trường, mà còn mở ra cơ hội để tăng nguồn thu thuế.
Khi thị trường tiền mã hóa toàn cầu tiếp tục mở rộng, nhiều quốc gia giới thiệu các mô hình thuế khác nhau để quản lý và kiểm soát loại tài sản kỹ thuật số này.
Tuy nhiên, TS Chu Thanh Tuấn - Phó chủ nhiệm nhóm ngành Cử nhân Kinh doanh thuộc Đại học RMIT Việt Nam - cho rằng xây dựng một hệ thống thuế hiệu quả không nên chỉ dừng lại ở mục tiêu tạo nguồn thu mới cho ngân sách mà còn phải bảo đảm rằng chính sách này không làm suy yếu thị trường hay dẫn tới hiện tượng rò rỉ dòng vốn sang các nước khác.
Cơ hội thu thuế từ thị trường tiền mã hóa
Việt Nam hiện nằm trong nhóm quốc gia có mức độ tiếp cận và quan tâm tới tiền mã hóa cao nhất thế giới. Theo báo cáo từ Chainalysis, Việt Nam đứng thứ 5 toàn cầu về mức độ quan tâm tới tiền mã hóa và xếp thứ 3 về mức độ sử dụng các nền tảng giao dịch quốc tế.
Ước tính đến nay có khoảng 17 triệu người Việt sở hữu tiền mã hóa với tổng giá trị thị trường vượt 100 tỷ USD.
Theo TS Chu Thanh Tuấn, Việt Nam có thể tạo nguồn thu ngân sách đáng kể từ thị trường này nếu áp dụng một cơ chế thuế hợp lý. Một hướng tiếp cận hiệu quả là đánh thuế giao dịch ở mức thấp, tương tự như thuế giao dịch chứng khoán.
Theo ước tính của Hiệp hội Blockchain Việt Nam, việc áp thuế 0,1% trên mỗi giao dịch tiền mã hóa có thể mang lại hơn 800 triệu USD/năm mà không gây gián đoạn tới hoạt động của thị trường.
TS Chu Thanh Tuấn nhấn mạnh lĩnh vực tiền mã hóa có tiềm năng đóng góp về thuế rất lớn. Ảnh: NVCC.
Bên cạnh thuế giao dịch, Chính phủ còn có thể cân nhắc đánh thuế thu nhập cá nhân đối với lợi nhuận từ đầu tư tiền mã hóa hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các công ty hoạt động trong lĩnh vực này.
Nếu tiền mã hóa được phân loại là tài sản đầu tư thì lợi nhuận từ giao dịch có thể bị đánh thuế tương tự như chứng khoán hoặc bất động sản. Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành tiền mã hóa cũng có thể chịu thuế với mức 20% như các doanh nghiệp truyền thống.
Một nguồn thu tiềm năng khác cho Chính phủ là phí cấp phép hoạt động cho các sàn giao dịch tiền mã hóa. Nhiều quốc gia đã triển khai mô hình này, chẳng hạn như Dubai yêu cầu các dự án tiền mã hóa phải đóng phí cấp phép.
“Nếu Việt Nam áp dụng hệ thống tương tự, Chính phủ có thể vừa kiểm soát thị trường vừa tạo ra nguồn thu không đến từ thuế”, TS Tuấn nhận định.
Thách thức trong việc thu thuế tiền mã hóa
Dù có tiềm năng tạo ra nguồn thu ngân sách, việc triển khai hệ thống thuế đối với tiền mã hóa tại Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều thách thức. Một trong những rào cản lớn nhất chính là tính ẩn danh trong giao dịch tiền mã hóa.
Theo chuyên gia từ Đại học RMIT, khác với các giao dịch tài chính truyền thống, tiền mã hóa vận hành trên mạng lưới blockchain phi tập trung không thông qua các ngân hàng, gây khó khăn cho việc theo dõi và kiểm soát dòng tiền.
Ngay cả khi Việt Nam yêu cầu các sàn giao dịch được cấp phép tuân thủ quy trình xác minh danh tính khách hàng (KYC), nhà đầu tư vẫn có thể chuyển tài sản của họ sang ví cá nhân hoặc giao dịch trên các nền tảng tài chính phi tập trung (DeFi) để tránh bị đánh thuế.
Bên cạnh đó, khung pháp lý dành cho tiền mã hóa tại Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Trong khi Chính phủ đang chủ động thảo luận việc hợp pháp hóa tiền mã hóa, hiện vẫn chưa có quy định chính thức về cách phân loại và quản lý loại tài sản này.
TS Tuấn cho rằng việc xem tiền mã hóa là tài sản, hàng hóa hay phương thức thanh toán sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cách đánh thuế. “Thiếu định nghĩa pháp lý rõ ràng sẽ gây khó khăn cho việc triển khai hệ thống thuế công bằng và hiệu quả”, ông nhận định.
Bổ sung thêm, TS Chu Thanh Tuấn cũng cảnh báo về nguy cơ dòng vốn chảy ra nước ngoài nếu chính sách thuế không được thiết kế tốt.
Lấy Ấn Độ làm ví dụ, khi chính phủ nước này áp thuế 30% đối với lợi nhuận từ tiền mã hóa và 1% thuế trên mỗi giao dịch, khối lượng giao dịch trong nước đã giảm tới 70% vì nhà đầu tư chuyển sang các sàn giao dịch nước ngoài.
Nếu Việt Nam triển khai mức thuế quá cao hoặc hệ thống thuế quá phức tạp, nhà đầu tư có thể chuyển hoạt động sang các thị trường thân thiện hơn như Singapore hay Dubai và gây thất thoát nguồn thu thuế tiềm năng.
Một thách thức khác nằm ở hạn chế công nghệ trong việc theo dõi các giao dịch. Để đánh thuế tiền mã hóa một cách hiệu quả, Việt Nam cần đầu tư vào các công cụ phân tích blockchain tiên tiến.
Tuy nhiên, điều này sẽ vấp phải khó khăn vì nhiều loại tiền mã hóa được thiết kế nhằm bảo mật tối đa. Những công cụ này khiến cho việc theo dõi các giao dịch gần như bất khả thi nếu không có sự hợp tác từ các sàn giao dịch.
Bài học xây dựng chính sách thuế cho tiền mã hóa
Theo TS Tuấn, để thu hút đầu tư mà vẫn đảm bảo nguồn thu thuế ổn định, Việt Nam cần một mô hình thuế cân bằng. Thuế giao dịch thấp kết hợp với thuế lãi về vốn trong khung thuế thu nhập cá nhân có thể giúp duy trì tính công bằng mà không làm suy yếu thị trường.
Ngoài ra, Việt Nam nên cân nhắc miễn thuế giá trị gia tăng (VAT) cho tiền mã hóa như cách Liên minh châu Âu và Singapore đã thực hiện, nhằm tránh đánh thuế 2 lần và duy trì khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực.
Nếu thiết lập được một hệ thống thuế đơn giản, cạnh tranh và cân bằng, Việt Nam có thể vừa tạo được nguồn thu đáng kể từ tiền mã hóa
TS Chu Thanh Tuấn, Phó chủ nhiệm nhóm ngành Cử nhân Kinh doanh thuộc Đại học RMIT Việt Nam
Một giải pháp quan trọng khác là tăng cường giám sát các sàn giao dịch bằng cách yêu cầu các nền tảng giao dịch trong nước phải báo cáo chi tiết giao dịch, điều này sẽ giúp cơ quan thuế theo dõi hoạt động hiệu quả hơn. Đồng thời, Việt Nam cần hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm giám sát các giao dịch xuyên biên giới và ngăn chặn hành vi trốn thuế.
Thay vì chỉ tập trung vào nguồn thu từ thuế, Chính phủ còn có thể tạo thêm nguồn thu từ phí cấp phép hoạt động, bằng cách yêu cầu các sàn giao dịch tiền mã hóa và các dự án phát hành tiền mã hóa lần đầu (ICO) phải đăng ký chính thức. Thiết lập một khuôn khổ cấp phép minh bạch không chỉ giúp Chính phủ tăng nguồn thu, mà còn tăng cường bảo vệ nhà đầu tư và giảm rủi ro liên quan đến các dự án chất lượng kém.
Hợp pháp hóa và điều chỉnh giao dịch tiền mã hóa là bước quan trọng giúp Việt Nam khai thác tối đa lợi ích kinh tế từ lĩnh vực này. Tuy nhiên, chính sách thuế phải được thiết kế cẩn thận để tránh tạo ra rào cản đầu tư hoặc tạo ra lỗ hổng khiến rò rỉ dòng vốn.
“Nếu thiết lập được một hệ thống thuế đơn giản, cạnh tranh và cân bằng, Việt Nam có thể vừa tạo được nguồn thu đáng kể từ tiền mã hóa, vừa thúc đẩy sự phát triển của một hệ sinh thái tài sản số bền vững”, TS Tuấn khẳng định.
Minh Khánh
Nguồn Znews : https://znews.vn/danh-thue-nha-dau-tu-tien-so-the-nao-post1542294.html