Đâu mới là 'át chủ bài' trong cạnh tranh giành ưu thế trên không Mỹ-Trung Quốc?

Đâu mới là 'át chủ bài' trong cạnh tranh giành ưu thế trên không Mỹ-Trung Quốc?
16 giờ trướcBài gốc
Máy bay chiến đấu J-20 của Trung Quốc bay theo đội hình tại một triển lãm hàng không. (Nguồn: China Daily)
Với việc Trung Quốc nhanh chóng mở rộng phi đội máy bay tàng hình J-20 và Mỹ kéo dài tuổi thọ của F-22 Raptor, cả hai nước dường như đều đang tăng cường sức mạnh không quân từ máy bay có người lái. Điều này cho thấy, bất chấp những tiến bộ trong công nghệ UAV, phi công vẫn thống trị bầu trời.
"Xương sống" của sức mạnh không quân
Tháng 9 vừa qua, nhiều nguồn tin truyền thông đưa tin rằng Không quân quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAAF) đã đạt được một cột mốc quan trọng khi đưa vào hoạt động ít nhất 300 máy bay chiến đấu tàng hình Thành Đô J-20. Động thái này cho thấy sự gia tăng nhanh chóng của lực lượng máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5.
Thông tin này càng đáng tin khi bốn chiếc J-20, bao gồm cả khung máy bay sản xuất số thứ tự 300 được xác định bằng số hiệu đóng tàu "CB10300", đã đến Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm (Trung Quốc), để tham dự một triển lãm hàng không vào giữa tháng trước.
Các nhà phân tích lưu ý rằng PLAAF đã bổ sung ít nhất 50 máy bay chiến đấu mới kể từ tháng 6/2024, thể hiện tốc độ gia tăng về lượng nhanh chóng, giúp Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về số lượng máy bay tàng hình đang hoạt động.
Đội bay J-20 hiện ngang ngửa với quy mô 180 chiếc F-22 Raptor và hơn 240 chiếc F-35A của Không quân Mỹ, mặc dù tổng số máy bay của Washington vẫn lớn hơn nếu tính cả máy bay của Thủy quân lục chiến và Hải quân Mỹ.
Việc mở rộng đội bay J-20 minh chứng cho chiến lược sản xuất hàng loạt máy bay chiến đấu đời mới của Trung Quốc nhằm cạnh tranh với sự "thống trị" trên không của Mỹ ở châu Á. Trung Quốc đã phát triển chương trình này trong vòng chưa đầy một thập kỷ để giờ đây lực lượng máy bay chiến đấu trở thành xương sống của sức mạnh không quân.
Và tất nhiên, Mỹ cũng không thể chịu thua kém. Tạp chí War Zone (TWZ) mới đây cho biết, Lockheed Martin đang thúc giục Không quân Mỹ mở rộng chương trình nâng cấp F-22 Raptor, bao gồm 35 máy bay Block 20 cũ hơn, hiện đang được sử dụng cho mục đích huấn luyện, nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu trong bối cảnh chưa rõ ràng về thời gian thay thế máy bay.
Phó Chủ tịch Skunk Works OJ Sanchez khẳng định giá trị chiến lược của việc hiện đại hóa những máy bay bị loại biên này tại Hội nghị không quân, vũ trụ và mạng gần đây ở Maryland. Động thái này diễn ra sau áp lực từ Quốc hội Mỹ và những lo ngại về hoạt động của Không quân Mỹ do thiếu loại máy bay kế nhiệm chính thức cho F-22.
Việc nâng cấp sẽ kéo dài khả năng hoạt động của chương trình máy bay chiến đấu Mỹ cho đến những năm 2040, cải thiện khả năng tàng hình, cảm biến và khả năng phối hợp tác chiến có người lái và không người lái.
TWZ cho rằng F-22 có thể là máy bay đầu tiên của Mỹ dẫn đầu chương trình Máy bay chiến đấu phối hợp (CCA), với phi đội sẵn sàng chiến đấu sẽ được trang bị các máy tính bảng và phần cứng hỗ trợ cần thiết để vận hành loại máy bay này, khi chương trình Chiếm ưu thế trên không thế hệ tiếp theo (NGAD) được triển khai.
Theo Tướng David Allvin, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, nước này đã bắt đầu sản xuất F-47 - máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 đầu tiên và dự kiến máy bay sẽ thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 2028.
Được Boeing chế tạo theo chương trình NGAD để thay thế F-22, máy bay chiến đấu không đuôi F-47 sẽ có khả năng tàng hình được cải tiến, trang bị vũ khí siêu thanh, trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán lượng tử và tích hợp với UAV.
Tướng Allvin cho biết các nguyên mẫu đã được bí mật bay thử từ năm 2019 và nhấn mạnh tính cấp bách của việc hoàn thiện mẫu máy bay này.
Thông tin này được đưa ra vài tuần sau khi Trung Quốc công bố các biến thể J-15 mới và máy bay chiến đấu tàng hình J-35 vừa qua. Có thông tin cho rằng Bắc Kinh cũng đang phát triển các thiết kế máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6.
Kết hợp để bổ sung cho nhau
Mặc dù cả hai quốc gia đều đang đầu tư nguồn lực vào các hệ thống không người lái, nhưng việc thúc đẩy nâng cấp máy bay chiến đấu có người lái làm rõ những hạn chế của UAV và nhu cầu lâu dài về phi công.
Bày tỏ những lo ngại tiềm tàng của Mỹ về công nghệ không người lái, tác giả Jay Stout lập luận trong một bài báo trên Proceedings vào tháng 7/2025 rằng các UAV đang phải đối mặt với những rào cản đáng kể về chi phí, khả năng sống sót và AI.
Ông chỉ ra rằng việc chế tạo UAV với hiệu suất chiến đấu cơ tương đương có người lái khiến chúng đắt đỏ như máy bay phản lực có người lái, trong khi vẫn phụ thuộc vào hệ thống thông tin liên lạc yếu kém và dễ bị tấn công mạng bởi đối thủ.
Tương tự, tác giả Eleanor Harvey và Timothy Ditter lưu ý trong một bài báo trên CNA hồi tháng 5/2025 rằng các chuyên gia Trung Quốc lo ngại về việc UAV gặp vấn đề về liên kết dữ liệu, cảm biến không đáng tin cậy và thiếu linh hoạt về mặt chiến thuật, khiến chúng dễ bị gây nhiễu và bị đánh lừa.
Qua đó có thể thấy, các vấn đề của Mỹ với công nghệ không người lái xuất phát từ chi phí quá cao và năng lực được hứa hẹn quá mức. Ngược lại, Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức liên quan đến công nghệ và các lỗ hổng vận hành.
Trong một bài báo tháng 2/2025 cho Viện Chính sách an ninh và phát triển (ISDP), tác giả Rohith Stambamkadi chỉ ra rằng, mặc dù vai trò ngày càng tăng trên chiến trường, nhưng UAV không thể đạt được ưu thế trên không do những hạn chế cơ bản về khả năng thích ứng, năng lực tấn công và khả năng sống sót.
Ông Stambamkadi nhận thấy rằng việc phụ thuộc vào các thuật toán tĩnh và dữ liệu cảm biến gây cản trở việc ra quyết định theo thời gian thực trên chiến trường có tính biến động cao.
Mặt khác, không giống như máy bay có người lái, UAV thiếu sức bền, điều này hạn chế hiệu quả của chúng trong không phận có tranh chấp. Ngay cả các nâng cấp tàng hình cũng phải đối mặt với các biện pháp đối phó từ các radar đa tĩnh được hỗ trợ bởi AI.
Hơn nữa, ông Stambamkadi nhận định rằng các chiến lược UAV thường tập trung vào thế phòng thủ có nguy cơ đánh mất thế chủ động, vì các cuộc xung đột ở Ukraine và Israel đã cho thấy UAV dễ dàng bị vô hiệu hóa khi được sử dụng với số lượng lớn.
Do những cảnh báo này, cả Mỹ và Trung Quốc đều đã nghiên cứu các khả năng phối hợp có người lái-không người lái (MUM-T) để khắc phục những thiếu sót của cả hai.
Trong một báo cáo của Trung tâm nghiên cứu RAND vào tháng 8/2025, học giả Shanshan Mei lưu ý rằng Trung Quốc coi MUM-T là trọng tâm của mô hình chiến đấu trong tương lai nhưng nhấn mạnh vào việc tăng cường hơn là tự chủ, tập trung vào các tiến bộ về phần mềm và thuật toán để hỗ trợ các nền tảng có người lái trong khi vẫn duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với việc ra quyết định trong khi tác chiến.
Trong khi đó, tác giả Bryan Clark và Dan Patt lập luận trong một báo cáo của Viện Hudson vào tháng 9/2025 rằng các khái niệm của Mỹ, chẳng hạn như CCA và thiết kế lực lượng "biên-xung-lõi", nhằm mục đích sử dụng các hệ thống không người lái làm lực lượng phòng thủ, hấp thụ rủi ro, ngăn chặn đối phương tự do hành động và tạo ra các khoảng trống cho máy bay có người lái khai thác.
Trong không phận rộng lớn bị đe dọa bởi tên lửa, máy bay chiến đấu có người lái vẫn nên là lực lượng dẫn đầu trên thực địa, trong khi các "đồng đội" không người lái mở rộng phạm vi hoạt động, chấp nhận rủi ro và tạo điều kiện tiếp cận.
Do đó, sự thống trị trên không trong tương lai không chỉ phụ thuộc vào số lượng UAV nhiều hay ít hơn mà còn ở việc bên nào sử dụng máy bay chiến đấu có người lái tốt hơn và giành thế chủ động khi thuật toán gặp trục trặc.
(theo Asia Times)
Quang Huy
Nguồn TG&VN : https://baoquocte.vn/dau-moi-la-at-chu-bai-trong-canh-tranh-gianh-uu-the-tren-khong-my-trung-quoc-330179.html