Tỷ lệ đảm nhận vận tải hành khách công cộng đô thị tại TP Hà Nội đạt 19,5%.
Năng lượng sạch cho giao thông xanh
Tại Diễn đàn “Năng lượng xanh - Thành phố sạch” ngày 7/11, ông Lê Văn Đạt, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược, bồi dưỡng cán bộ xây dựng cho biết, Hà Nội là một trong những đô thị có mức độ ô nhiễm không khí cao nhất cả nước, với nồng độ bụi mịn PM₂.₅ trung bình năm 2023 đạt 40-50 µg/m³, vượt hơn 2-3 lần giới hạn khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là 15 µg/m³.
Nguồn gây ô nhiễm không khí chủ yếu ở Hà Nội là phát thải từ phương tiện giao thông đường bộ, theo thống kê chiếm 58-74% tùy từng thời điểm. Các nghiên cứu thống kê đã chỉ rõ rằng xe máy là một trong những nguồn phát thải chính tại đô thị, cụ thể xe máy gây ra 94% lượng hydrocarbon (HC), 87% khí CO, 57% NOx và 33% bụi mịn PM10 từ giao thông.
Hiện tỷ lệ đảm nhận vận tải hành khách công cộng đô thị tại TP Hà Nội đạt 19,5% (xe buýt khoảng 10%; Metro 1-2% và các loại hình khác 7-8%). Trong 18.612 xe vận tải taxi thì có hơn 8.800 xe điện.
Ông Lê Văn Đạt, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược, bồi dưỡng cán bộ xây dựng: Tới 2030, tối thiểu 50% xe buýt sử dụng điện hoặc năng lượng xanh.
Trong khi đó, tỷ lệ đảm nhận vận tải hành khách công cộng đô thị tại TP HCM đạt 7% (bao gồm xe buýt; Metro và các loại hình khác). Trong tổng số 15.406 xe taxi thì có đến gần 12.000 xe điện.
Ông Đạt cho biết, lộ trình chuyển đổi năng lượng xanh ngành giao thông vận tải đã đặt mục tiêu: Tới 2025, 100% xe buýt thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh; Tới 2030, tối thiểu 50% xe buýt sử dụng điện hoặc năng lượng xanh, 100% thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh; Tới 2050, 100% xe buýt, xe taxi sử dụng điện, năng lượng xanh.
Các mục tiêu này yêu cầu bộ giải pháp giao thông xanh toàn diện, đồng bộ cần được áp dụng ngay từ bây giờ. Giải pháp đầu tiên là hướng tới chuyển đổi sang xe điện, quản lý phương tiện phát thải cao và sử dụng năng lượng sạch khác, chuyển đổi năng lượng và phương tiện, khuyến khích xe buýt CNG/LNG, xe Hydro (Hydrogen Fuel Cell).
Xa hơn nữa là hướng tới di chuyển bền vững, thông qua phát triển hệ thống giao thông công cộng, hiệu quả, giao thông phi cơ giới, thu phí phương tiện vào khu vực trung tâm, ứng dụng công nghệ và quy hoạch thông minh.
Để sớm hiện thực hóa các giải pháp, Học viện Chiến lược, bồi dưỡng cán bộ xây dựng đề xuất một số cơ chế, như nghiên cứu giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 50% trong 5 năm đầu cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh trạm sạc điện dành cho xe buýt.
Học viện cũng kiến nghị nghiên cứu hỗ trợ lãi suất vốn vay cho dự án đầu tư hạ tầng, phương tiện vận tải công cộng bằng xe buýt sử dụng năng lượng sạch phù hợp với điều kiện của địa phương. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khai thác vận hành vận tải hành khách công cộng tại đô thị. Có chính sách ưu đãi đầu tư phát triển tuyến buýt đường thủy sử dụng năng lượng xanh phục vụ hành khách.
Đồng thời, ông Lê Văn Đạt cho rằng cần nghiên cứu triển khai đề án thu phí vào khu vực trung tâm thành phố, hạn ngạch ô tô và xe máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch; Nghiên cứu tổ chức thực hiện thu phí vào khu vực trung tâm thành phố (VĐ1, VĐ2...) đối với các phương tiện kinh doanh vận tải sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phương tiện kinh doanh vận tải có biển kiểm soát đăng ký ở địa phương khác hoạt động trên địa bàn.
Năng lượng tái tạo là hướng đi tất yếu
Bàn về vấn đề năng lượng xanh trong lộ trình chuyển dịch năng lượng, ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), cho biết, điều chỉnh Quy hoạch điện VIII đã đặt ra tầm nhìn dài hạn cho phát triển năng lượng tái tạo. Mục tiêu đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo chiếm tới 74-75% tổng công suất nguồn điện, trong đó điện gió và điện mặt trời giữ vai trò chủ đạo.
Ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo: Điện gió ngoài khơi là động lực thúc đẩy phát triển chuỗi công nghiệp hỗ trợ, cảng biển, logistics và các dịch vụ kỹ thuật cao.
Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đặt mục tiêu phát triển mạnh điện gió ngoài khơi. Dự kiến đến giai đoạn 2030-2035, tổng công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu đạt từ 6-17 GW, và định hướng đến năm 2050 có thể tăng lên 113-139 GW. Đây là quy mô lớn hàng đầu khu vực, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc trở thành trung tâm năng lượng sạch ở Đông Nam Á.
“Điện gió ngoài khơi không chỉ là nguồn năng lượng sạch mà còn là động lực thúc đẩy phát triển chuỗi công nghiệp hỗ trợ, cảng biển, logistics và các dịch vụ kỹ thuật cao, Việt Nam với bờ biển dài hơn 3.000 km, có nhiều khu vực có tốc độ gió ổn định, là điều kiện lý tưởng để phát triển ngành công nghiệp điện gió quy mô lớn”, ông Trang nhấn mạnh.
Cùng với đó, điện gió trên bờ và gần bờ cũng tiếp tục được mở rộng, với tổng công suất dự kiến đạt 26.000-38.000 MW vào năm 2030. Các dự án sẽ được ưu tiên bố trí tại những địa phương có tiềm năng gió tốt, đồng thời kết hợp phát triển kinh tế vùng, đặc biệt tại các khu vực còn khó khăn.
Theo đại diện Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, điều chỉnh Quy hoạch điện VIII không chỉ mở rộng quy mô các nguồn điện gió mà còn thúc đẩy toàn diện các loại hình năng lượng tái tạo khác như điện mặt trời, thủy điện nhỏ, điện sinh khối, hydrogen xanh và ammonia xanh. Mục tiêu là xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, linh hoạt, có khả năng tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn, bảo đảm vận hành an toàn, hiệu quả và kinh tế.
Đặc biệt, các mô hình điện mặt trời áp mái và điện mặt trời nổi trên mặt nước được khuyến khích phát triển nhằm tận dụng tối đa nguồn bức xạ mặt trời, đồng thời giảm áp lực lên hệ thống truyền tải. Cơ chế “tự sản - tự tiêu thụ” sẽ trở thành một cấu phần quan trọng trong chiến lược điện năng tái tạo của Việt Nam.
Dù tiềm năng rất lớn, nhưng ông Trang cho rằng thách thức trong phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam vẫn còn nhiều, đặc biệt là vấn đề đồng bộ chính sách, hạ tầng truyền tải và cơ chế giá điện. Việc phát triển nhanh các nguồn điện tái tạo nếu không song hành với nâng cấp lưới điện, hệ thống lưu trữ và cơ chế điều tiết hợp lý sẽ dễ dẫn đến mất cân bằng cung cầu và gây áp lực lên hệ thống điện quốc gia.
Để phát triển bền vững các nguồn năng lượng tái tạo, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa quy hoạch, pháp luật, đầu tư và công nghệ. Đặc biệt là chính sách khuyến khích khu vực tư nhân, cùng với sự đồng hành của cộng đồng quốc tế trong chuyển giao công nghệ và tài chính xanh.
Ngoài ra, ông Trang cũng đề nghị nâng cao ý thức sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả trong sản xuất và sinh hoạt cũng là yếu tố quan trọng để giảm áp lực nhu cầu điện năng trong tương lai, góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0”.
Phương Thảo