Điều gì làm nên đặc biệt của ẩm thực Nhật Bản?

Điều gì làm nên đặc biệt của ẩm thực Nhật Bản?
một ngày trướcBài gốc
Tỉnh Hokkaido, miền bắc Nhật Bản, nổi tiếng với nhiều loại mì. Ảnh: May Tse
Ẩm thực Nhật Bản là một trong những nền ẩm thực được yêu thích nhất thế giới. Truyền thống xa xưa, người Nhật thường ưu tiên chế biến các món ăn bằng nguyên liệu theo mùa.
Ẩm thực Nhật Bản cũng được coi là một trong những nền ẩm thực tuyệt vời nhất thế giới nhờ hương thơm, độ tươi của nguyên liệu và cách trình bày món ăn phong cách. Michelin Guide đã tặng sao cho khoảng 360 nhà hàng tại Nhật Bản.
Theo blogger ẩm thực châu Á Stefan Leistner, tính thẩm mỹ, nguyên liệu theo mùa tươi ngon và chất lượng cao là những đặc điểm đặc trưng của ẩm thực Nhật Bản.
Trọng tâm luôn là sản phẩm. Inga Pfannebecker, tác giả của cuốn sách dạy nấu ăn đến từ Amsterdam cho biết mục đích của ẩm thực Nhật Bản là giữ nguyên hương vị tự nhiên.
Đó là lý do tại sao gia vị, nhiệt và chất béo được sử dụng ít hơn nhiều so với các món ăn châu Á khác.
Trong cuốn sách “Gohan: Everyday Japanese Cooking”, tác giả và blogger ẩm thực người Úc gốc Nhật Emiko Davies đã ca ngợi những món ăn mà bà và mẹ cô nấu hàng ngày nấu tại nhà.
Davies cho rằng trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, nấu đồ ăn Nhật Bản không đòi hỏi nhiều sự tinh tế hay thời gian.
"Những món ăn thường chế biến nhanh chóng và cực kỳ đơn giản nhờ thực phẩm tươi ngon, theo mùa, không nấu quá lâu và không cần nhiều gia vị để làm nổi bật hương vị tự nhiên", ông Davies nói.
Blogger ẩm thực châu Á Leistner cũng giải thích gạo không chỉ là món ăn kèm mà còn là thành phần chính trong nhiều món ăn. Loại gạo được sử dụng phổ biến nhất là Japonica, còn được gọi là gạo sushi, có hạt ngắn và hơi dính nhờ hàm lượng tinh bột cao.
Trong khi đó, dashi và miso cũng là những thành phần quan trọng trong ẩm thực Nhật Bản. Miso là một loại bột nhão lên men làm từ đậu nành, gạo hoặc lúa mạch, tạo nên hương vị cho súp miso, được dùng trong hầu hết các bữa ăn từ sáng - trưa - tối.
Người Nhật thường thêm đậu phụ, rong biển và rau vào súp. Cũng được dùng để nêm vào nước sốt, bột miso có hương vị và màu sắc rất khác nhau, tùy thuộc vào thời gian lên men và thành phần.
Bên cạnh đó, dashi cũng là loại nước dùng làm từ kombu (tảo bẹ ăn được) và vảy cá ngừ bonito (cá ngừ). Là một loại gia vị phổ biến, loại nước dùng này không thể thiếu trong các món súp, nước sốt và món hầm. Dashi và miso mang đến cho các món ăn hương vị umami.
Nhật Bản có đường bờ biển dài 30.000 km (18.600 dặm), nhiều núi lửa và sự khác biệt rõ rệt về khí hậu giữa bắc và nam, đây cũng là một phần lý do tạo nên nền ẩm thực của đất nước này.
Đặc trưng ẩm thực vùng miền
Hầu hết các loại thực phẩm đều có nguồn gốc từ biển: cá, hải sản và rong biển. Thịt được coi là một thứ xa xỉ – có lẽ là do lệnh cấm tiêu thụ thịt trong nhiều thế kỷ.
Mỗi vùng ở Nhật Bản đều có những đặc sản riêng. Hokkaido ở phía bắc có mì ramen Hakodate, một loại súp mì với thịt lợn, măng, rau bina và hành lá trong nước dùng mặn. Và mì ramen Asahikawa, một loại nước dùng đậm đà làm từ đậu nành với hải sản và thịt.
Tỉnh Hokkaido cũng nổi tiếng với kombu, cá hồi, cua hoàng đế và sò điệp từ Hồ Saroma. Sò điệp có thể được nướng hoặc thưởng thức như sashimi. Những người hảo ngọt có thể tự thưởng cho mình món kem matcha được sản xuất tại địa phương
Trong khi đó, thủ đô Tokyo là nơi hoàn hảo để thưởng thức nhiều loại sushi khác nhau, bao gồm nigiri sushi – loại sushi phổ biến nhất, có một lát cá sống trên một lớp cơm – hoặc chirashi sushi, trong đó hải sản nằm trên một bát cơm và rau ngâm.
Maki sushi là một loại sushi phổ biến khác, bao gồm cơm với nhiều thành phần khác nhau được cuộn trong rong biển khô gọi là nori. Cuộn California, cuộn cá ngừ và cuộn rau là các loại sushi maki.
Hay Temaki là loại cuộn thủ công. Sashimi là cá sống hoặc hải sản thái mỏng không có cơm, thường được sắp xếp một cách nghệ thuật và ăn kèm với nước tương, wasabi và gừng ngâm.
“Sushi có nguồn gốc từ việc bảo quản cá bằng gạo lên men. Vào thế kỷ 16, ý tưởng ướp cá trong giấm trở nên phổ biến và vào thế kỷ 19, sushi Edomae xuất hiện ở Edo (nay là Tokyo) như một món ăn nhẹ nhanh làm từ cá tươi đánh bắt từ Vịnh Edo”, Leistner nói.
Theo blogger ẩm thực người Úc gốc Nhật Emiko Davies, các món chiên như tempura và karaage được các nhà truyền giáo và thương nhân Bồ Đào Nha du nhập vào miền Nam Nhật Bản từ thế kỷ 16. Tempura được làm bằng cách chiên hải sản hoặc rau trong hỗn hợp bột nhão nhẹ.
Đối với món karaage, thịt gà thường được ướp trong nước tương, mirin và gia vị, phủ bột khoai tây rồi chiên giòn. Món ăn này là món ăn nhẹ phổ biến và cũng rất ngon khi để lạnh.
Khi thịt được thêm vào chế độ ăn uống vào cuối thế kỷ 19, người Nhật đã tiếp thu các món ăn phương Tây khác. Cụ thể là món tonkatsu, một miếng thịt lợn tẩm bột chiên và thái lát.
HỒNG NHUNG
Nguồn Văn hóa : http://baovanhoa.vn/du-lich/dieu-gi-lam-nen-dac-biet-cua-am-thuc-nhat-ban-140428.html