Các đại biểu thống nhất cao về sự cần thiết phải sửa đổi các luật này nhằm kịp thời thể chế hóa các chủ trương của Đảng, hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao chất lượng giáo dục, đẩy mạnh phân cấp quản lý và khắc phục những điểm nghẽn về thể chế hiện hành, phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.
Phát biểu tại phiên thảo luận, các đại biểu Đoàn Bắc Ninh đã tập trung góp ý nhằm bảo đảm nguyên tắc xây dựng văn bản pháp luật, tăng tính khả thi và thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đại biểu Đào Hồng Lan, Đoàn Bắc Ninh phát biểu thảo luận tại tổ.
Góp ý vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học, đại biểu Đào Hồng Lan, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế (Đoàn Bắc Ninh) nêu: Công tác đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe hiện chưa có quy định cụ thể trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học (sửa đổi). Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo cần cụ thể hóa Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân vào 2 dự án luật trên để tạo cơ sở pháp lý cho việc đào tạo chuyên khoa và bác sĩ nội trú, khắc phục những bất cập trong thực tiễn hiện nay.
Cụ thể, đại biểu kiến nghị đối với quy định quản lý văn bằng, chứng chỉ: Đề nghị chỉnh sửa khoản 5, Điều 12 (sửa đổi, bổ sung Điều 12 của Luật Giáo dục) để Chính phủ quy định cụ thể về quản lý văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân; đồng thời thêm nội dung về “văn bằng trình độ của một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù”.
Về đội ngũ nhà giáo, đại biểu đề nghị quy định nhà giáo đồng cơ hữu là viên chức của các tổ chức khoa học công nghệ công lập hoặc viên chức bệnh viện công lập (là cơ sở đào tạo thực hành trong lĩnh vực sức khỏe) được giao nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục như giảng viên cơ hữu tại cơ sở giáo dục công lập.
Về trách nhiệm quản lý nhà nước, đại biểu đề nghị bổ sung quy định tại Khoản 3, Điều 6 dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) nhấn mạnh: Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về đào tạo chuyên khoa và chuyên khoa sâu trong lĩnh vực sức khỏe.
Về chương trình đào tạo, đại biểu đề nghị bổ sung các quy định tại nhiều điều khoản khác (khoản 1, 2 Điều 8; khoản 4 Điều 22; khoản 5 Điều 23...) nhằm giao Bộ Y tế trách nhiệm ban hành chuẩn chương trình đào tạo, quy chế tuyển sinh và quy chế đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe.
Đại biểu Trần Thị Vân, Đoàn Bắc Ninh thảo luận về dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục.
Đại biểu Trần Thị Vân, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh tham gia góp ý vào dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục. Về độ tuổi vào lớp 10, đại biểu Trần Thị Vân cho rằng quy định mốc 15 tuổi vào lớp 10 (điểm c, khoản 1, Điều 28 sửa đổi) là hợp lý theo lộ trình giáo dục. Tuy nhiên, nếu quy định cứng mốc 15 tuổi sẽ hạn chế quyền học tập và gây bất cập trong thực tế đối với những học sinh đi học muộn do điều kiện kinh tế hoặc phải nghỉ gián đoạn do thiên tai, dịch bệnh.
Đại biểu đề nghị bỏ cụm từ “học sinh vào học lớp 10 là 15 tuổi và được tính theo năm”. Thay vào đó, sửa đổi theo hướng mở, linh hoạt và học tập suốt đời: “học sinh vào lớp 10 phải tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc học sinh lớp 10 thông thường là 15 tuổi, có thể cao hơn hoặc thấp hơn tùy theo điều kiện cụ thể của người học và quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo”.
Góp ý vào khoản 1, Điều 103, đại biểu Trần Thị Vân bày tỏ quan điểm: Cụm từ “đất sạch” là thuật ngữ hành chính, không được định nghĩa trong Luật Đất đai hoặc văn bản pháp luật chuyên ngành, dẫn đến khó thi hành và dễ gây tranh cãi. Đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo thay thế cụm từ “đất sạch” bằng các cụm từ chuẩn đã có trong Luật Đất đai như “đất đã được giải phóng mặt bằng hoặc đất đủ điều kiện giao hoặc cho thuê”. Đề nghị bỏ cụm từ “tập trung giải phóng mặt bằng” vì đây là ngôn ngữ mang tính hành động, khẩu hiệu, chỉ đạo, không phù hợp với ngôn ngữ pháp lý trong văn bản quy phạm pháp luật.
Do vậy, đại biểu đề nghị sửa đổi khoản 1, Điều 103 thành: “Ưu tiên dành quỹ đất phù hợp, cho phép chuyển đổi linh hoạt mục đích sử dụng đất sang đất giáo dục; giao đất cho các dự án giáo dục, đào tạo theo quy định của pháp luật”.
Đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, đại biểu Nguyễn Thị Hà, Giáo viên Trường Trung học phổ thông Hàn Thuyên (Đoàn Bắc Ninh) góp ý vào khoản 5 (sửa đổi bổ sung Điều 19 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục) về việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Đại biểu Hà cho rằng cụm từ “trí tuệ nhân tạo có kiểm soát” chưa được giải thích rõ, dễ gây hiểu sai và khó áp dụng thống nhất. Quy định này chưa làm rõ chủ thể kiểm soát, nội dung cần kiểm soát và cơ chế kiểm soát trong thực tế.
Do đó, đại biểu kiến nghị nếu tiếp tục sử dụng cụm từ “có kiểm soát” cần định nghĩa rõ phạm vi và nội dung kiểm soát trong luật hoặc văn bản hướng dẫn (ví dụ: kiểm soát chất lượng dữ liệu huấn luyện AI, kiểm soát việc sử dụng và bảo vệ dữ liệu cá nhân). Hoặc có thể thay bằng cách diễn đạt cụ thể hơn, như “trí tuệ nhân tạo với dữ liệu được bảo đảm an toàn, bảo mật”.
Đại biểu Nguyễn Thị Hà cũng đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung định hướng chuyển đổi số. Hiện dự thảo mới chỉ đề cập chung đến quản trị mà chưa bao quát nội dung chuyển đổi số trong dạy và học. Đại biểu đề xuất bổ sung quy định: “Nhà nước ưu tiên phát triển hạ tầng công nghệ thông tin cho giáo dục; khuyến khích ứng dụng công nghệ số, học liệu số trong giảng dạy; bồi dưỡng kỹ năng số cho nhà giáo và người học”. Đại biểu nhấn mạnh việc bổ sung định hướng này giúp ngành giáo dục thích ứng với xu thế chuyển đổi số, khắc phục hạn chế (như thiếu kỹ năng và phương tiện dạy học trực tuyến bộc lộ trong dịch Covid-19), đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho các đề án chuyển đổi số.
Tiến Hòa