Thị trường chè nội địa hấp dẫn doanh nghiệp
Tại Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các đơn vị tổ chức sáng 6/8, PGS. TS Nguyễn Văn Toàn - nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc dẫn số liệu của Hiệp hội Chè Việt Nam, năm 2024, xuất khẩu chè đạt gần 150.000 tấn, giá bình quân 1,75 USD/kg, tương đương tổng kim ngạch hơn 250 triệu USD. Trong khi đó, thị trường nội địa tiêu thụ khoảng 55.000 tấn nhưng đạt giá bình quân tới 7,5 USD/kg, tổng giá trị ước tính khoảng 410 triệu USD.
Giá chè tại thị trường nội địa bình quân đạt 7,5 USD/kg. Ảnh: Minh họa
Cơ cấu xuất khẩu có sự thay đổi rõ rệt. Cụ thể, chè xanh (bao gồm chè ướp hương, chè nhài, chè Ô long) chiếm gần 60% sản lượng và 70% giá trị xuất khẩu, trong khi chè đen chỉ còn 39%.
“Trước đây, chè đen từng chiếm tới 60-70%, nhưng hiện đã nhường chỗ cho sự tăng trưởng của chè xanh”, ông Nguyễn Văn Toàn nói và cho biết, thị trường nội địa đang tiêu thụ chủ yếu chè xanh, chiếm gần 1/3 sản lượng so với xuất khẩu nhưng giá trị lại cao gấp 1,64 lần nhờ mức giá trung bình cao hơn 4,3 lần so với hàng xuất khẩu.
Chính vì vậy, nhiều vùng chè lớn như Thái Nguyên ngày càng ít mặn mà với xuất khẩu, bởi giá bán trong nước đã đạt 7-8 USD/kg, cao hơn đáng kể so với giá xuất khẩu sang thị trường cao cấp như London chỉ khoảng 6-7 USD/kg. Ngoài ra, một yếu tố quan trọng khác là giá trị của chè xanh xuất khẩu bình quân cao hơn 1,53 lần so với chè đen.
Tập trung chế biến sâu, xây dựng thương hiệu nông sản địa phương
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu chè 7 tháng năm 2025 đạt 69,9 nghìn tấn và 117 triệu USD, giảm 10,9% về khối lượng và giảm 12,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá chè xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt 1.674 USD/tấn, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2024.
Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ” diễn ra sáng 6/8. Ảnh: NNVN
Pakistan, Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc là 3 thị trường tiêu thụ chè lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 35,7%, 11,4% và 9,7%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu chè 6 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Pakistan tăng 2,4%, thị trường Đài Loan (Trung Quốc) giảm 3,7%, thị trường Trung Quốc tăng 0,7%.
Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu chè tăng mạnh nhất ở thị trường Irắc với mức tăng 92,9% và giảm mạnh nhất ở thị trường Tiểu vương quốc Ả rập Thống Nhất với mức giảm 56,3%.
Ông Nguyễn Quý Dương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, năm 2024, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành Quyết định số 431/QĐ-BNN-TT ngày 26/1/2024 về việc phê duyệt Đề án Phát triển cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030.
Theo đó, đề án hướng đến năm 2030, diện tích trồng chè cả nước đạt khoảng 130 - 135 nghìn ha; sản lượng đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu tấn chè búp tươi. Giá trị xuất khẩu đạt khoảng đạt khoảng 280 - 300 triệu USD. Tỷ lệ chế biến sâu sản phẩm chè làm nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm, y tế đạt khoảng 20 - 25%. Đa dạng hóa sản phẩm chè như: Chè Ô long, chè túi lọc, chè bột Matcha, Sencha bằng công nghệ và thiết bị hiện đại; đạt trên 40% trong cơ cấu chế biến. Tỷ lệ diện tích chè được cấp mã số vùng trồng lên khoảng 30 - 40%.
Phát triển ngành chè trên cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu giống chè theo hướng trồng mới, trồng thay thế, cải tạo lại những nương chè trung du, già cỗi; đồng thời thu hút đầu tư phát triển vùng nguyên liệu chè chất lượng cao gắn với chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm từ chè.
Cũng theo ông Dương, trong những năm qua, công tác chọn tạo giống chè đã được đẩy mạnh tại Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Các giống chè mới là nguồn quan trọng để chúng ta xây dựng cơ cấu giống chè cả nước, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững ngành chè Việt Nam.
Cùng với việc áp dụng đúng quy trình kỹ thuật trong trồng trọt, thì việc xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, hướng đến nền sản xuất nông nghiệp bền vững, hiện đại mang lại giá trị cao là hết sức quan trọng.
Đưa ra khuyến nghị về định hướng phát triển chè khu vực Bắc Trung Bộ, ông Nguyễn Văn Toàn cho rằng, các địa phương cần tập trung phát triển chè xanh cao cấp cho thị trường nội địa. Chuyển đổi nhanh sang trồng các giống chè xanh chất lượng cao, tạo vùng nguyên liệu ổn định để sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng. Đây là yếu tố then chốt giúp chè Việt Nam từng bước tiếp cận phân khúc thị trường cao cấp.
Ưu tiên sản phẩm chè xanh ướp hương, nhất là hương nhài, đây là dòng sản phẩm đang được thị trường trong nước và quốc tế ưa chuộng. Từ đó, tạo chuỗi giá trị sản phẩm khác biệt và nâng cao năng lực cạnh tranh của chè ngành chè. Việc chuyển dịch từ chè đen sang chè xanh chất lượng cao không chỉ giúp tăng giá trị sản phẩm mà còn mở ra cơ hội phát triển bền vững cho ngành chè khu vực Bắc Trung Bộ.
Ở góc độ địa phương, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Văn Đệ cho biết, trong thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung quy hoạch vùng sản xuất, thực hiện tích tụ đất, xác định các sản phẩm chủ lực để mở rộng sản xuất theo chuỗi giá trị và nâng cao chất lượng. Ngoài ra, việc thu hút đầu tư vào chế biến sâu, xây dựng thương hiệu sản phẩm và tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại cũng sẽ được đẩy mạnh.
Nông sản không chỉ là sản phẩm mà còn là tài sản văn hóa, mang đậm bản sắc vùng miền. Việc thay đổi mạnh mẽ hơn nữa tư duy từ sản xuất sang kinh tế nông nghiệp, coi nông sản là sản phẩm hàng hóa cần định danh, định chuẩn và định hướng thị trường rõ ràng sẽ giúp nâng tầm giá trị nông sản Việt nói chung và ngành chè nói riêng.
Năm 2024, diện tích trồng chè cả nước là 10.262 ha, trong đó, diện tích trồng mới 127,8 ha, diện tích cho sản phẩm 9.513,3 ha, năng suất 139,5 tạ/ha và sản lượng 132,737 tấn.
Nguyễn Hạnh