Giảm phát thải trong nông nghiệp: Chìa khóa để Việt Nam tiến tới Net Zero

Giảm phát thải trong nông nghiệp: Chìa khóa để Việt Nam tiến tới Net Zero
4 giờ trướcBài gốc
Để hiện thực hóa mục tiêu này, ngành nông nghiệp, lĩnh vực chiếm khoảng 30% tổng phát thải khí nhà kính của cả nước phải đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Ảnh minh họa.
Nhằm từng bước hiện thực hóa cam kết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng Đề án phát triển vùng trồng trọt phát thải thấp giai đoạn 2025-2035, trong đó đặt mục tiêu giảm ít nhất 10% phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực trồng trọt vào năm 2035, đồng thời góp phần giảm 30% lượng phát thải khí metan so với năm 2020.
Đề án cũng hướng đến việc hình thành ít nhất 15 mô hình vùng sản xuất phát thải thấp, với khả năng nhân rộng và tích hợp tín chỉ carbon theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Điểm nhấn đáng chú ý của đề án là kế hoạch xây dựng ít nhất 5 gói kỹ thuật sản xuất phát thải thấp cho các cây trồng chủ lực như lúa, mía, cà phê, sắn, chuối.
Ngoài ra, việc thiết lập hệ thống đo lường, báo cáo, thẩm định (MRV) và cơ sở dữ liệu phát thải theo vùng sinh thái cũng là một bước đi quan trọng, nhằm minh bạch hóa quá trình giảm phát thải và kết nối với hệ thống đăng ký quốc gia.
Không chỉ tập trung vào giải pháp kỹ thuật, đề án còn chú trọng đào tạo lực lượng thực thi. Cụ thể, tối thiểu 3.000 cán bộ kỹ thuật, khuyến nông, doanh nghiệp và nông dân trên toàn quốc sẽ được tập huấn về kỹ thuật, công cụ đo phát thải, chính sách liên quan và nhận thức về chuyển đổi sản xuất. Đề án cũng dự kiến xây dựng 5 bộ tài liệu truyền thông để thay đổi hành vi canh tác theo hướng bền vững.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, nếu áp dụng hiệu quả các biện pháp như tưới ngập khô xen kẽ (AWD), quản lý phân bón hợp lý, sử dụng vật tư sinh học… nông dân có thể giảm từ 5-15% chi phí đầu vào so với canh tác truyền thống. Điều này không chỉ giúp giảm áp lực tài chính cho người sản xuất, mà còn nâng cao năng suất và chất lượng nông sản.
Về môi trường, nếu các giải pháp trong đề án được triển khai đồng bộ, ngành trồng trọt Việt Nam có thể giảm từ 8-11 triệu tấn CO₂ tương đương mỗi năm. Đây là con số đóng góp đáng kể vào chỉ tiêu giảm phát thải quốc gia theo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).
Cùng với đó, đất canh tác sẽ được cải thiện độ phì, tài nguyên được bảo vệ, ô nhiễm do đốt phụ phẩm nông nghiệp được kiểm soát, và sinh kế của người dân nông thôn được củng cố bền vững.
Việc sản xuất nông sản theo hướng giảm phát thải không chỉ mang lại lợi ích nội tại, mà còn mở ra cơ hội lớn trên thị trường quốc tế.
Các sản phẩm có truy xuất nguồn gốc carbon, chứng nhận phát thải thấp, thân thiện môi trường sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận các thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ, nơi đang áp dụng những quy định khắt khe về môi trường và khí hậu đối với hàng nhập khẩu.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, hệ thống canh tác trồng trọt giảm phát thải tại Việt Nam hiện vẫn đối mặt không ít khó khăn. Phát biểu tại Hội thảo tham vấn “Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 - 2035”, do Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa tổ chức, đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.Cần Thơ cho biết, địa phương cơ bản thống nhất và đánh giá cao các nội dung của Dự thảo Đề án phát triển vùng trồng trọt phát thải thấp. Theo đánh giá, tác động của Đề án là rõ rệt trên cả ba phương diện: kinh tế, môi trường và xã hội.
Cụ thể, việc áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến như tưới ngập khô xen kẽ (AWD), quản lý phân bón hợp lý, sử dụng vật tư có nguồn gốc sinh học... giúp giảm chi phí đầu vào từ 5-15% so với phương thức sản xuất truyền thống, đặc biệt hiệu quả đối với các cây trồng như lúa, mía và cà phê.
Bên cạnh đó, việc sản xuất nông sản theo hướng giảm phát thải, có truy xuất nguồn gốc carbon và đạt chứng nhận môi trường sẽ mở ra cơ hội tiếp cận các thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ… với mức giá bán có thể cao hơn từ 10-25% so với sản phẩm thông thường.
Về mặt môi trường, nếu triển khai hiệu quả các giải pháp tổng thể trong Đề án, ngành trồng trọt có thể góp phần giảm từ 8-11 triệu tấn CO₂ tương đương mỗi năm, một đóng góp đáng kể vào mục tiêu giảm phát thải quốc gia (NDC).
Tuy nhiên, đại diện Cần Thơ cho rằng quy mô thực hiện hiện tại của Đề án còn quá khiêm tốn. Với chỉ 15 mô hình sản xuất phát thải thấp và 5 mô hình thí điểm phát triển tín chỉ carbon, quy mô này chưa tương xứng với nhu cầu thực tế cũng như tiềm năng của ngành trồng trọt.
Do đó, địa phương kiến nghị cần mở rộng số lượng và phạm vi các mô hình hệ sinh thái, hướng tới xây dựng lộ trình nhân rộng hiệu quả hơn trong toàn quốc.
Đóng góp ý kiến từ góc nhìn doanh nghiệp, đại diện Công ty Cổ phần Mía đường Lam Sơn cho rằng, mặc dù đã có nhiều nỗ lực, hệ thống canh tác trồng trọt giảm phát thải tại Việt Nam vẫn đang gặp không ít rào cản.
Trong đó, trở ngại lớn nhất là thiếu cơ chế cụ thể về phát triển tín chỉ carbon trong nông nghiệp khi vẫn chưa có hướng dẫn rõ ràng, thiếu đơn vị trung gian hỗ trợ kỹ thuật và thương mại hóa tín chỉ.
Hiện tại, phần lớn các mô hình giảm phát thải mới chỉ tập trung vào cây lúa, trong khi nhiều nhóm cây trồng chủ lực khác như mía, ngô, sắn, đậu tương, rau màu, cây ăn quả... đều có tiềm năng rất lớn để áp dụng kỹ thuật canh tác thân thiện môi trường.
Những giải pháp như giảm sử dụng phân bón hóa học, tăng hấp thụ carbon qua cải tạo đất, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên sẽ góp phần hướng tới một nền nông nghiệp bền vững và thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu.
Trước thực tế này, đại diện doanh nghiệp kiến nghị cần rút ngắn thời gian triển khai Đề án, tăng tốc thực hiện các mô hình sản xuất giảm phát thải, tránh nguy cơ mất cơ hội thị trường trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.
Nếu không có hành động kịp thời, nông sản Việt Nam có thể gặp khó khăn trong xuất khẩu, đặc biệt là khi các đối tác thương mại ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn môi trường theo các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Trong cuộc đua toàn cầu hướng tới Net Zero, nông nghiệp Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Cơ hội đang ở phía trước, nhưng cũng đồng thời là thách thức lớn.
Nếu không kịp chuyển đổi, thích ứng, chúng ta có thể bỏ lỡ cả một giai đoạn phát triển, thậm chí tụt lại phía sau khi thế giới đang bước vào kỷ nguyên kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh và tiêu dùng bền vững.
D.Ngân
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/giam-phat-thai-trong-nong-nghiep-chia-khoa-de-viet-nam-tien-toi-net-zero-d349802.html