Gìn giữ nguồn gen quý để phát triển cây trồng vật nuôi bản địa có giá trị kinh tế cao

Gìn giữ nguồn gen quý để phát triển cây trồng vật nuôi bản địa có giá trị kinh tế cao
3 giờ trướcBài gốc
Giống vịt Cổ Lũng nổi tiếng bởi chất lượng thịt thơm ngon, sức đề kháng tốt
VỊT CỔ LŨNG – TỪ NGUY CƠ MAI MỘT ĐẾN SẢN PHẨM OCOP
Giữa thung lũng xanh mướt nơi vùng cao Bá Thước cũ, nay thuộc đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp bộ máy chính quyền, những đàn vịt bơi lội trên dòng suối, cánh đồng đã trở thành hình ảnh quen thuộc. Giống vịt Cổ Lũng vốn được nuôi từ bao đời, nổi tiếng bởi chất lượng thịt thơm ngon, sức đề kháng tốt. Thế nhưng, trong giai đoạn phát triển nông nghiệp theo hướng chạy theo năng suất, giống vịt này từng đứng bên bờ biến mất khi người dân ưu tiên các loại vịt lai tăng trọng.
Năm 2016, địa phương bắt đầu thực hiện dự án phục hồi giống vịt bản địa Cổ Lũng. Cán bộ nông nghiệp trực tiếp về tận bản, hướng dẫn bà con cách xây dựng chuồng trại an toàn sinh học, kỹ thuật chăm sóc đàn vịt sinh sản và vịt thương phẩm. Từ vài hộ tiên phong, đến nay hàng trăm hộ đã tham gia.
Kết quả ghi nhận đến thời điểm này, tổng đàn vịt Cổ Lũng đạt trên 50.000 con. Con số này cho thấy nỗ lực bền bỉ nhiều năm trời đã được đền đáp. Giống vịt đã được cấp chỉ dẫn địa lý, được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao, tạo ra cơ hội lớn để mở rộng thị trường.
Tổng đàn vịt Cổ Lũng đạt trên 50.000 con
Ông Hà Văn Tình, người gắn bó với nghề nuôi vịt ở Cổ Lũng, chia sẻ: “Ngày trước chăn nuôi chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, bệnh dịch hay khiến đàn vịt chết nhiều. Giờ được hướng dẫn kỹ thuật, vịt khỏe mạnh, ít hao hụt. Gia đình tôi đã có thu nhập ổn định hơn, không lo thiếu ăn như trước”.
Không dừng lại ở nuôi trong hộ gia đình, mô hình nuôi vịt Cổ Lũng đã hình thành các tổ hợp tác, liên kết tiêu thụ. Từ loài vật nuôi tưởng chừng biến mất, nay vịt Cổ Lũng đang góp phần xây dựng thương hiệu nông sản đặc trưng cho miền sơn thủy xứ Thanh.
QUẾ NGỌC THƯỜNG XUÂN – HƯƠNG RỪNG LAN TỎA
Nếu Cổ Lũng gắn với đàn vịt quý thì Thường Xuân lại nổi tiếng bởi quế Ngọc. Loài cây gắn bó với đời sống người dân miền núi không chỉ mang lại bóng mát, gỗ và hương liệu, mà còn tạo ra nguồn thu nhập đáng kể. Trước đây, diện tích quế thu hẹp do người dân chặt bỏ trồng keo, nhưng nhờ các chương trình bảo tồn, quế Ngọc đã dần khôi phục vị thế.
Người trồng quế có thể thu 40 – 50 triệu đồng/ha mỗi năm.
Trong giai đoạn 2015 – 2020, địa phương xây dựng đề án bảo tồn và phát triển quế Ngọc. Diện tích trồng mới và trồng xen lên đến 1.479ha, kết hợp keo lai để che phủ đất đồi và tăng hiệu quả kinh tế. Người trồng quế có thể thu 40 – 50 triệu đồng/ha mỗi năm, cao hơn hẳn so với trồng độc canh keo.
Đặc biệt, 6 hệ thống nồi chưng cất tinh dầu được đầu tư đã biến lá, cành quế thành nguồn nguyên liệu quý. Sản phẩm tinh dầu quế được công nhận OCOP 3 sao, mở ra hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Đến nay, địa phương đã có thêm 1.100ha quế tập trung, với mục tiêu năm 2025 đạt 9.000ha cùng 3,5 triệu cây phân tán.
Sản phẩm từ cây quế.
Cây quế Ngọc không chỉ đem lại thu nhập cho hàng nghìn hộ mà còn tạo dựng thương hiệu. Hương quế theo chân thương lái lan tỏa ra nhiều vùng, thậm chí xuất khẩu. Đồi núi phủ xanh, môi trường được cải thiện, sinh kế bền vững dần định hình cho người dân miền cao.
NGUỒN GEN BẢN ĐỊA – TÀI SẢN CẦN ĐƯỢC PHÁT HUY
Thanh Hóa hiện có 756 nguồn gen cây trồng, vật nuôi và thủy sản có giá trị, trong đó 390 nguồn gen bản địa. Tỉnh đã bảo tồn được 119 đối tượng nguồn gen tại các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, đồng thời đưa vào sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Hiện nay, 231 sản phẩm đạt chuẩn OCOP 3 – 4 sao, trong đó 78 sản phẩm trực tiếp từ nguồn gen bản địa, 153 sản phẩm chế biến.
Danh mục nguồn gen đa dạng, từ cây ăn quả như bưởi Luận Văn, quýt vòi, cam Vân Du, dưa hấu Mai An Tiêm, đến vật nuôi như ngan sen, gà ri, lợn rừng, bò vàng. Mỗi giống bản địa đều gắn với địa danh, lịch sử và văn hóa cộng đồng, trở thành “chứng nhân” của vùng đất. Khi được phát triển thành sản phẩm thương mại, chúng vừa giữ gìn di sản, vừa mở ra cơ hội kinh tế.
Bưởi Luận Văn.
Tuy nhiên, hành trình bảo tồn và phát triển không ít thách thức. Một bộ phận người dân chưa nhìn thấy giá trị dài hạn của giống bản địa, lo ngại về đầu ra và lợi nhuận so với giống lai. Kinh phí ngân sách cho công tác này còn hạn chế, trong khi việc nghiên cứu, chọn lọc, nhân giống chưa đồng bộ. Điều đó khiến tốc độ mở rộng diện tích cây bản địa hay tăng đàn vật nuôi còn chậm.
Để vượt qua trở ngại, nhiều chuyên gia cho rằng cần nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của nguồn gen, gắn bảo tồn với lợi ích thiết thực. Đồng thời, cần tạo môi trường hấp dẫn để doanh nghiệp tham gia, đưa sản phẩm bản địa vào chuỗi giá trị, mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Hợp tác với các trường, viện trong ứng dụng khoa học, lai tạo và nhân giống chất lượng cao là yếu tố quyết định để sản phẩm giữ vững sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ vốn vay ưu đãi, đất đai và kỹ thuật sẽ tiếp thêm động lực cho người dân và hợp tác xã.
Thiên Anh
Nguồn VnEconomy : https://vneconomy.vn/gin-giu-nguon-gen-quy-de-phat-trien-cay-trong-vat-nuoi-ban-dia-co-gia-tri-kinh-te-cao.htm