Giữ hồn tranh Đông Hồ qua những hành trình trải nghiệm

Giữ hồn tranh Đông Hồ qua những hành trình trải nghiệm
2 giờ trướcBài gốc
Sức sống bền bỉ của tranh dân gian Đông Hồ
Sinh ra từ vùng quê Kinh Bắc bên dòng sông Đuống, tranh dân gian Đông Hồ là kết tinh của đời sống tinh thần người Việt trong xã hội nông nghiệp cổ truyền. Theo các nghệ nhân làng tranh, tranh Đông Hồ “không phải để treo cho sang, mà để treo cho vui, cho ấm nhà, ấm cửa”, bởi mỗi bức tranh đều mang theo một lời chúc, một ước vọng giản dị cho năm mới, cho cuộc sống gia đình và cho cộng đồng.
Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Đăng Chế, một trong số ít người còn gắn bó trọn đời với nghề cho biết, tranh Đông Hồ phản ánh những điều người dân mong mỏi nhất: vợ chồng thuận hòa, con cháu đông vui, làm ăn no đủ, xã hội công bằng. Chính vì vậy, từ những bức tranh nổi tiếng như Đám cưới chuột, Chăn trâu thổi sáo, Đánh ghen, đến các bộ tranh Vinh hoa - Phú quý, Lợn đàn, Gà đàn..., tất cả đều toát lên tinh thần lạc quan, hóm hỉnh nhưng cũng đầy tính giáo huấn của dân gian Việt Nam.
Về giá trị thẩm mỹ, tranh Đông Hồ mang một phong cách riêng biệt trong dòng chảy mỹ thuật truyền thống, đó là vẻ đẹp của sự tiết giản, của những mảng màu phẳng, rõ, không pha trộn, hài hòa trên nền giấy dó quét điệp óng ánh. Mỗi màu sắc đều được chế tác từ nguyên liệu tự nhiên, gắn với tri thức bản địa tích lũy qua nhiều thế hệ. Những ván khắc gỗ không chỉ là công cụ sản xuất mà còn là “kho ký ức” lưu giữ tư duy tạo hình và mỹ cảm của cả một cộng đồng.
Màu sắc trong tranh Đông Hồ được chế tác từ nguyên liệu tự nhiên, gắn với tri thức bản địa tích lũy qua nhiều thế hệ
Điều đặc biệt, tranh Đông Hồ không phải là sáng tạo của cá nhân đơn lẻ mà là kết quả của quá trình chắt lọc, bổ sung và hoàn thiện qua nhiều đời nghệ nhân. Một mẫu tranh có thể tồn tại với nhiều dị bản, nhiều cách phối màu khác nhau, phản ánh sự linh hoạt trong tư duy thẩm mỹ dân gian. Chính tính cộng đồng và tính truyền đời ấy đã tạo nên chiều sâu văn hóa đặc biệt cho dòng tranh.
Giai đoạn rực rỡ nhất của làng tranh Đông Hồ là từ cuối thế kỷ XVIII đến trước năm 1944, khi toàn bộ 17 dòng họ trong làng đều gắn bó với nghề làm tranh, từ sáng tác đến buôn bán. Thế nhưng, chiến tranh và những biến động lịch sử đã làm đứt gãy mạch phát triển ấy, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi nhiều cơ sở sản xuất bị thiêu hủy. Phải đến năm 1967, sau khi miền Bắc lập lại hòa bình, nghề tranh mới dần có điều kiện hồi phục.
Trong ký ức của nhiều thế hệ người dân, chợ tranh Đông Hồ từng là một không gian nhộn nhịp mỗi dịp tháng Chạp, nơi tranh được bày bán tấp nập, thu hút cả thương lái lẫn những người tìm về thưởng ngoạn không khí lễ hội làng nghề.
Khách hào hứng với trải nghiệm làm tranh Đông Hồ.
Ảnh: Bích Vân
Tuy nhiên, trước sự thay đổi của đời sống và thị hiếu, thị trường tranh ngày càng thu hẹp, buộc nhiều gia đình phải chuyển nghề để mưu sinh, khiến nghề truyền thống này đối mặt với nguy cơ mai một.
Năm 2013, tranh dân gian Đông Hồ được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và xếp vào diện cần bảo vệ khẩn cấp. Từ nền tảng đó, những nỗ lực bảo tồn và phục hồi đã từng bước được triển khai, đưa làng tranh Đông Hồ trở thành điểm đến du lịch văn hóa giàu chiều sâu.
Đặc biệt, ngày 9.12 theo giờ Hà Nội, tại Kỳ họp lần thứ 20 tổ chức ở Ấn Độ, UNESCO đã chính thức thông qua quyết định đưa Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản thứ 17 của Việt Nam được tổ chức này ghi danh, đặt ra cả cơ hội lẫn trách nhiệm trong việc khôi phục và gìn giữ dòng tranh dân gian đặc sắc của người Việt.
Để giá trị di sản hòa cùng nhịp đập du lịch
Trong bối cảnh nghề làm tranh đứng trước nguy cơ đứt gãy, du lịch được xem là một trong những con đường quan trọng để đưa di sản tranh dân gian Đông Hồ trở lại đời sống. Với vị trí nằm bên sông Đuống, cách trung tâm Hà Nội khoảng 35km, làng tranh Đông Hồ có lợi thế lớn để phát triển các tour du lịch văn hóa ngắn ngày, phù hợp với học sinh, sinh viên, gia đình và du khách quốc tế quan tâm đến di sản bản địa.
Hiện nay, nhiều tour, tuyến du lịch đã được xây dựng theo hướng kết nối làng tranh Đông Hồ với các điểm đến văn hóa tiêu biểu của Bắc Ninh như chùa Bút Tháp, chùa Dâu, đền Đô, không gian dân ca quan họ... Trong hành trình ấy, Đông Hồ không còn là điểm dừng chân “xem cho biết”, mà trở thành không gian trải nghiệm, nơi du khách được gặp gỡ nghệ nhân, nghe kể chuyện nghề, quan sát từng công đoạn làm tranh và trực tiếp tham gia in tranh truyền thống.
Ông Phạm Văn Thưởng - cán bộ Phòng Nghiệp vụ Bảo tàng Bắc Ninh số 2 chia sẻ: “Tôi cảm thấy rất vinh dự mỗi khi được tham gia các hoạt động trưng bày, giới thiệu tranh dân gian Đông Hồ. Điều khiến tôi ấn tượng nhất là sự quan tâm và hào hứng của các thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên khi đến tham quan, trải nghiệm và tìm hiểu di sản quê hương. Hi vọng trong thời gian tới, di sản tranh dân gian Đông Hồ sẽ tiếp tục được lan tỏa sâu rộng ở trong nước và quốc tế”.
Theo các nghệ nhân làng tranh, điều khiến họ trăn trở nhất không phải là bán được bao nhiêu bức tranh, mà là làm sao để “người đến làng hiểu tranh, hiểu nghề và hiểu vì sao ông cha mình quý nó đến vậy”. Chính vì thế, các hoạt động trải nghiệm như tự tay in tranh, tìm hiểu ván khắc, giấy dó, màu tự nhiên… ngày càng được chú trọng, đặc biệt với các đoàn học sinh, sinh viên và khách quốc tế.
Những dịp lễ hội truyền thống cũng trở thành điểm nhấn quan trọng trong phát triển du lịch làng nghề. Lễ hội tranh Đông Hồ diễn ra vào tháng 3 âm lịch, hay các phiên chợ tranh xưa được phục dựng vào dịp cuối năm đã góp phần tái hiện không khí buôn bán tranh rộn ràng từng tồn tại suốt nhiều thế kỷ. Với du khách, đây còn là cơ hội được “sống lại” với một phần ký ức văn hóa của làng quê Bắc Bộ xưa.
Chị Bích Vân - một người từng tham gia chương trình du lịch làng tranh Đông Hồ cho rằng, sức hấp dẫn của sản phẩm tour nằm ở những trải nghiệm chân thực và chiều sâu văn hóa. Không chỉ dừng lại ở việc tham quan, tour còn mở ra cơ hội để du khách trực tiếp tham gia các công đoạn thủ công, trải nghiệm thực tế, qua đó cảm nhận rõ nét hơn những giá trị văn hóa mà tranh Đông Hồ mang lại.
“Các nghệ nhân và người dân địa phương luôn nhiệt tình, chủ động chia sẻ câu chuyện nghề, hướng dẫn du khách một cách cởi mở, gần gũi. Chính sự thân thiện cùng niềm tự hào về nghề truyền thống đã góp phần lan tỏa giá trị di sản và tạo nên dấu ấn riêng biệt cho sản phẩm tour”, chị Vân chia sẻ thêm.
Trải nghiệm làm tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: Internet
Tuy nhiên, nghề tranh Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ mai một nghiêm trọng. Số hộ gia đình theo nghề giảm mạnh, thế hệ trẻ ít gắn bó vì nghề khó đảm bảo sinh kế, trong khi nhiều công đoạn làm tranh đòi hỏi thời gian dài để học hỏi và tích lũy kinh nghiệm. Đây cũng là lý do nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được UNESCO ghi danh vào Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp, một sự ghi nhận đi kèm với lời nhắc nhở về trách nhiệm đối với việc gìn giữ và phục hồi di sản.
Sau khi nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được UNESCO ghi danh, định hướng bảo tồn và phát huy giá trị di sản này đã được đặt trong một chương trình hành động tổng thể. Phát biểu ngay sau thời khắc thông qua quyết định, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương khẳng định Việt Nam cam kết triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm bảo vệ di sản, trong đó nhấn mạnh vai trò của cộng đồng và việc gắn bảo tồn với phát triển bền vững.
Theo Thứ trưởng Hoàng Đạo Cương, các nhiệm vụ trọng tâm bao gồm mở lớp truyền nghề chuyên sâu, kiểm kê và tư liệu hóa hệ thống ván khắc cổ, cải thiện khả năng tiếp cận nguồn nguyên liệu tự nhiên, hỗ trợ nghệ nhân đa dạng hóa sản phẩm và thị trường, đồng thời đưa di sản vào giáo dục và các hoạt động du lịch văn hóa…
Những định hướng này được kỳ vọng sẽ tạo nền tảng lâu dài cho du lịch làng tranh Đông Hồ, tránh tình trạng khai thác di sản theo kiểu phong trào, thiếu chiều sâu. Hi vọng rằng, khi du lịch trở thành một phần của chiến lược bảo tồn, người nghệ nhân sẽ có thêm sinh kế, thế hệ trẻ có thêm động lực gắn bó với nghề, còn du khách thì có cơ hội tiếp cận di sản một cách chân thực và sâu sắc hơn.
HỒ THẢO
Nguồn Văn hóa : http://baovanhoa.vn/du-lich/giu-hon-tranh-dong-ho-qua-nhung-hanh-trinh-trai-nghiem-191124.html