Góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ XIV: Cần xóa bỏ tâm lý bằng cấp, tập trung vào phát triển kỹ năng nghề và khả năng tự học

Góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ XIV: Cần xóa bỏ tâm lý bằng cấp, tập trung vào phát triển kỹ năng nghề và khả năng tự học
3 giờ trướcBài gốc
Văn kiện đã đề cập đến năm cơ sở gồm: (1) yêu cầu phát triển đất nước, (2) thực trạng giáo dục nước nhà, (3) hội nhập quốc tế, (4) cơ sở lý luận – tư tưởng, và (5) kinh nghiệm quốc tế. Đó là những định hướng chiến lược để ngành giáo dục triển khai những giải pháp đột phá.
Sinh viên Đại học Phenikaa trong Lễ tốt nghiệp
Việt Nam cần nguồn nhân lực chất lượng cao
Để đạt tăng trưởng chất lượng, công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng, Việt Nam cần nguồn nhân lực chất lượng cao. Nền giáo dục mở, hiện đại sẽ đào tạo thế hệ công dân có tri thức, kỹ năng, phẩm chất đáp ứng yêu cầu phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Thống kê cho thấy Việt Nam có lợi thế dân số trẻ, song chất lượng lao động còn nhiều hạn chế: khoảng 38 triệu lao động chưa qua đào tạo sơ cấp trở lên, và tỷ lệ thất nghiệp thanh niên tới 7,63%. Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức, kỹ năng chuyên môn, tư duy sáng tạo trở thành động lực tăng trưởng.
Văn kiện cần khẳng định rõ lĩnh vực ưu tiên phát triển (ví dụ STEM, công nghệ cao, kinh tế số) cũng như lộ trình cải cách đào tạo sư phạm và khuyến khích nghiên cứu, ít nhắc tới cơ chế liên kết chặt chẽ giữa trường học và doanh nghiệp.
Để đột phá trong phát triển nguồn nhân lực, cần xây dựng kế hoạch dự báo nhu cầu lao động chất lượng cao theo từng giai đoạn. Đầu tư trọng điểm đào tạo nhân lực cho các ngành công nghệ cao (AI, công nghệ sinh học, kỹ thuật số) qua học bổng, viện nghiên cứu. Thiết kế chương trình học tập dựa trên chuẩn đầu ra cụ thể về năng lực (ví dụ kỹ năng số, ngoại ngữ, khởi nghiệp).
Tăng cường các môn STEM và giáo dục trải nghiệm, liên kết đào tạo theo hướng thực hành tại doanh nghiệp. Nâng cao chuẩn đào tạo sư phạm (ưu tiên lấy giáo viên giỏi) và tạo môi trường giảng dạy hiện đại (lớp học thông minh, phòng thực hành). Khuyến khích nghiên cứu ứng dụng và liên kết giữa nhà trường – viện nghiên cứu – doanh nghiệp để cập nhật tri thức mới.
Tham khảo kinh nghiệm các nước đi trước: ví dụ Hàn Quốc thành công khi xây dựng chiến lược nhân lực tổng thể, tăng cường chất lượng giáo dục và giảm áp lực thi cử để kích thích sáng tạo. Việt Nam cũng cần xóa bỏ tâm lý bằng cấp và tập trung vào phát triển kỹ năng nghề và khả năng tự học.
Thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay
Văn kiện đưa ra nhận định chung về thực trạng nền giáo dục Việt Nam còn nhiều yếu kém, lạc hậu và bất cập; chưa dựa trên chuẩn đầu ra, thiếu tính mở, khó bắt kịp xu thế thế giới. Mặc dầu học sinh Việt Nam đạt điểm cao ở một số kỳ thi quốc tế, nhưng chất lượng đại trà và giáo dục đạo đức có lúc đi xuống.
Phân tích kinh tế xã hội chỉ rõ nhiều bất bình đẳng: tỉ lệ học lên đại học ở hộ giàu cao gấp 4,5 lần hộ nghèo, giáo viên và cơ sở vật chất vùng sâu thiếu hụt nghiêm trọng. Dữ liệu nhân lực cho thấy nghịch lý “thừa bằng, nhưng thiếu năng lực”: năm 2024, thất nghiệp cử nhân 3,9% cao hơn trung cấp 2,8%, và 40% sinh viên đại học phải làm trái ngành. Nói chung, hệ thống còn nặng lý thuyết, lỏng lẻo liên kết với thực tiễn và yêu cầu thị trường.
Dự thảo nêu ra khái quát các hạn chế nhưng chưa đề cập đủ đến bất bình đẳng vùng miền, áp lực thi cử gây căng thẳng, và việc ưu tiên bằng cấp mà coi nhẹ giáo dục nghề.
Để giải quyết vấn đề này, giáo dục đã chuyển đổi sang định hướng năng lực (competency-based), giảm thiểu thi cử kiểu “học tủ”. Tích hợp kỹ năng thực hành, tư duy phản biện, kỹ năng sống vào chương trình. Phát triển giáo dục STEM và tăng giờ thực hành – trải nghiệm để nâng cao tính sáng tạo của học sinh. Chúng ta đã đầu tư hạ tầng và đào tạo giáo viên cho vùng sâu, vùng xa; áp dụng học bổng, hỗ trợ tài chính giúp học sinh dân tộc ít người học tập tốt hơn.
Ví dụ, 47% học sinh nông thôn chưa có thiết bị học trực tuyến và nhiều giáo viên chưa thành thạo kỹ năng số; và đang tiếp tục khắc phục khoảng cách số để đảm bảo tiếp cận bình đẳng. Về đào tạo nghề, chúng ta đã mở rộng hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo mô hình Đức – Áo (học nghề kép), nâng cao vị thế nghề nghiệp trong xã hội. Giảm mức ưu tiên chỉ học đại học; khuyến khích học sinh chọn trường nghề ở trình độ cao (hiện mới 10% chọn nghề ở THPT so với 45–60% ở Đức).
Đào tạo nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp cho giáo viên, hiệu trưởng. Đơn giản hóa cơ chế quản lý, giao quyền tự chủ cho trường học (như cơ chế tài chính, tuyển dụng) để tăng tính linh hoạt và sáng tạo. Thiết lập khung kiểm định quốc gia cho tất cả cấp học, đảm bảo chuẩn đầu ra và chất lượng đào tạo; khuyến khích trường đạt kiểm định quốc tế để so sánh năng lực với khu vực và thế giới.
Học sinh THCS tại Hà Nội thực hành thí nghiệm
Hội nhập quốc tế và đổi mới sáng tạo
Văn kiện nhấn mạnh sự toàn cầu hóa và cách mạng 4.0 đã đặt ra xu thế đổi mới giáo dục; một nền giáo dục hiện đại sẽ tạo lợi thế cạnh tranh, giúp học sinh làm việc được trong môi trường quốc tế, thu hút đầu tư và hợp tác khoa học.
Trên thực tế, chuyển đổi số đã và đang thay đổi căn bản giáo dục. Việt Nam có lợi thế dân số trẻ, tỷ lệ tiếp cận Internet và smartphone cao, nhưng còn nhiều thách thức: năm 2021, gần 47% học sinh nông thôn thiếu thiết bị học trực tuyến và 60% giáo viên vùng sâu không có kỹ năng dạy trực tuyến hiệu quả.
Việc hội nhập đòi hỏi kỹ năng ngôn ngữ và mềm tốt hơn (như tư duy phản biện, làm việc nhóm, giao tiếp toàn cầu). Dự thảo văn kiện chỉ ra rất trúng khi khuyến khích chương trình và phương pháp tiên tiến, nhưng cần cụ thể hóa kế hoạch nâng cao kỹ năng số và ngoại ngữ. Cũng cần chú ý đến bảo vệ bản sắc văn hóa nhân cách Việt Nam trong xu thế toàn cầu.
Sẽ cần tiếp tục đưa giáo dục STEM và học máy vào chương trình từ sớm; triển khai giáo dục STEM cho giáo viên; áp dụng AI, VR, học trực tuyến để cá nhân hóa việc học. Phát triển hạ tầng số toàn quốc cho trường học (internet tốc độ cao, thiết bị điện tử), rút ngắn khoảng cách thành thị - nông thôn.
Đẩy mạnh giảng dạy tiếng Anh (và ngoại ngữ khác) từ tiểu học; khuyến khích chương trình song ngữ, trao đổi sinh viên với nước ngoài. Ký kết hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu thế giới; đẩy mạnh các chương trình đào tạo liên kết quốc tế và tuyển học sinh tài năng đi du học để quay trở về.
Thiết lập hệ sinh thái sáng kiến giáo dục khởi nghiệp, nghiên cứu khoa học trẻ trong trường học. Khuyến khích học sinh đề xuất dự án khoa học, tổ chức cuộc thi ý tưởng sáng tạo cấp quốc gia/phòng học. Cho phép trường có thẩm quyền linh hoạt trong thiết kế chương trình để nhanh chóng đáp ứng thị trường lao động quốc tế.
Phát triển các trường học mở, đào tạo từ xa và trực tuyến, khuyến khích người lao động học thêm kỹ năng mới trong suốt đời (hướng tới xã hội học tập). Điều này phù hợp với xu thế toàn cầu hóa tri thức và góp phần tăng năng suất lao động quốc gia. Tiếp tục tham gia các kỳ đánh giá như PISA, TIMSS để so sánh năng lực học sinh với quốc tế và rút kinh nghiệm cải cách cho phù hợp.
Về cơ sở lý luận và tư tưởng khoa học giáo dục
Văn kiện nhấn mạnh kế thừa quan điểm Marx–Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các lý thuyết phát triển bền vững, kinh tế tri thức, xã hội học tập, đổi mới sáng tạo… Đảm bảo hệ thống giáo dục hiện đại cung cấp nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy các ngành công nghệ cao.
Việc gắn mục tiêu giáo dục với tư tưởng Mác – Lênin và Hồ Chí Minh là truyền thống của giáo dục Việt Nam, giúp giữ vững định hướng phát triển đất nước. Đồng thời, Dự thảo mở rộng thêm các lý thuyết hiện đại (từ phát triển bền vững đến kinh tế tri thức) phù hợp với xu thế toàn cầu. Tuy nhiên, cần “diễn giải” các lý thuyết này vào giảng dạy và chính sách giáo dục, cụ thể hóa cách thể hiện thế nào trong nhà trường hiện đại.
Ví dụ cần thể hiện rõ tinh thần “tiên học lễ, hậu học văn”, giáo dục đạo đức, trách nhiệm cộng đồng. Đảm bảo phân bổ nguồn lực bình đẳng theo khu vực, chính sách miễn, giảm học phí với gia đình khó khăn để giáo dục thực sự là “quốc sách hàng đầu”. Những nguyên lý Marxist về bình đẳng nên cụ thể hóa thành chương trình phổ cập học vấn, xóa mù chữ và nâng cao trình độ cơ bản cho người dân. Xây dựng xã hội học tập – một xã hội coi giáo dục là suốt đời, khuyến khích học nghề, học tập trong doanh nghiệp và cộng đồng.
Điều này tương thích với “trụ cột giáo dục” trong kinh tế tri thức của WB. Phát triển văn hóa khởi nghiệp, sáng tạo ngay trong nhà trường (ví dụ thí điểm Trung tâm Đổi mới sáng tạo trong trường đại học). Kết hợp lý thuyết đa trí tuệ (Multiple Intelligences), giáo dục STEM, và PISA skills vào chương trình giảng dạy. Ví dụ, tăng cường các môn giáo dục STEM, sử dụng phương pháp lấy người học làm trung tâm (student-centered learning), đánh giá năng lực toàn diện thay vì chỉ kiểm tra kiến thức.
Nghiên cứu mô hình giáo dục tiên tiến của các quốc gia phát triển (thường chú trọng công bằng, đổi mới) và chọn lọc áp dụng. Chẳng hạn, Phần Lan coi trọng giáo dục cá nhân hóa và không chạy theo thi cử, Nhật Bản chú trọng giáo dục nhân cách, tự lập.
Các nước tiên tiến thường đầu tư mạnh vào nghiên cứu khoa học và công nghệ trong trường đại học. Việt Nam nên khuyến khích các trường sáng tạo trong phương pháp giảng dạy (ví dụ đặt vấn đề thực tế cho học sinh giải quyết) và thúc đẩy tự chủ đại học để linh hoạt hội nhập tri thức mới.
Cần mở rộng hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo mô hình Đức – Áo (học nghề kép), nâng cao vị thế nghề nghiệp trong xã hội
Học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong phát triển giáo dục hiện đại
Dự thảo khẳng định nền giáo dục hiện đại tiếp thu tinh hoa thế giới: công bằng, sáng tạo, phát triển toàn diện. Dẫn chứng Phần Lan (không áp lực thi, chú trọng bình đẳng cá nhân), Nhật (đạo đức, tự lập, kỷ luật), Mỹ – Anh – Đức – Canada (đầu tư nghiên cứu, công nghệ, linh hoạt chương trình, khuyến khích tư duy phản biện).
Chúng ta có thể học hỏi từ Phần Lan – giáo viên ở đây phải có trình độ thạc sĩ khoa học giáo dục/ sư phạm, được đào tạo liên tục, có vị thế, quyền tự chủ trong dạy học. Việt Nam nên tiếp tục nâng cao chuẩn đầu vào cho ngành sư phạm và tiếp tục nâng cao quyền hạn, uy tín cho nghề giáo (đãi ngộ, xét biên chế) cùng với Luật Nhà giáo.
Theo kinh nghiệm Phần Lan – Phần Lan chỉ có một kỳ thi trung học quốc gia không gây áp lực lớn. Việt Nam cần cải tổ thi tốt nghiệp và đại học theo hướng giảm các kỳ thi, tăng đánh giá suốt khóa, các hình thức phỏng vấn hồ sơ và cho phép nhiều ngưỡng xét tốt nghiệp để học sinh có nhiều động lực phát triển khả năng riêng biệt. Thúc đẩy mô hình trường học linh hoạt: công lập – bán công – tư nhân theo các chuẩn chất lượng quốc tế.
Tập trung xây dựng một vài trường trọng điểm theo mô hình quốc tế (như trường Quốc tế, trường chất lượng cao với chương trình tiếng Anh), nhưng song song hỗ trợ các trường công lập phát triển bình đẳng. Chúng ta có thể học tập mô hình của Đức – Áo về giáo dục nghề nghiệp: tổ chức đào tạo kép (học sinh vừa học vừa thực tập tại doanh nghiệp), nâng cao chất lượng trường cao đẳng nghề. Tăng liên kết doanh nghiệp để cập nhật công nghệ mới và đảm bảo sinh viên có việc làm ngay. Có thể tham khảo chương trình đào tạo của Mỹ, Anh trong việc khuyến khích học sinh đặt câu hỏi, tranh luận.
Xây dựng chương trình ngoại khóa, câu lạc bộ khoa học kỹ thuật. Tổ chức các cuộc thi cấp quốc gia về STEM và xã hội khoa học, tương tự cuộc thi khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startup) cho học sinh. Hay học hỏi mô hình đầu tư R&D của các nước tiên tiến (Mỹ, Nhật, Đức).
Chính phủ và trường đại học nên dành nguồn lực mạnh cho nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế (nhiều đại học Việt Nam hợp tác nghiên cứu với nước ngoài). Điều này tạo ra sản phẩm khoa học – công nghệ gắn kết chặt với giáo dục và sản xuất.
Bên cạnh đó, cũng không nên quên học hỏi các mô hình từ các nước Đông Bắc Á (Hàn Quốc, Singapore) vốn có bối cảnh giống Việt Nam và đã đạt những kết quả xuất sắc. Chúng ta có thể học tập mô hình giáo dục song ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin như ở Singapore.
Dự thảo văn kiện Đại hội XIV đã xác lập tầm nhìn chiến lược và toàn diện. Tuy nhiên, cần cụ thể hóa các lộ trình đổi mới, tăng đầu tư cho R&D, thúc đẩy tự chủ và sáng tạo trong nhà trường, cũng như mở rộng quyền tiếp cận tri thức số cho mọi người học. Một nền giáo dục hiện đại chỉ có thể hình thành khi gắn kết hiệu quả giữa tri thức, con người, và động lực phát triển quốc gia trong một thế giới toàn cầu hóa và đổi mới không ngừng.
PGS.TS Trần Thành Nam
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/gop-y-du-thao-van-kien-dai-hoi-dang-bo-toan-quoc-lan-thu-xiv-can-xoa-bo-tam-ly-bang-cap-tap-trung-vao-phat-trien-ky-nang-nghe-va-kha-nang-tu-hoc-10396054.html