Hiện đại hóa phương thức quản lý khai thác, vận hành đường cao tốc

Hiện đại hóa phương thức quản lý khai thác, vận hành đường cao tốc
3 giờ trướcBài gốc
Mạng lưới đường cao tốc phát triển nhanh chóng đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi cần đổi mới tổ chức khai thác, hoàn thiện phương thức vận hành, bảo trì nhằm hiện đại hóa hệ thống giao thông theo hướng thông minh và bền vững. Đây là nhận định chung của các đại biểu tại hội thảo khoa học “Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý, vận hành khai thác đường cao tốc và đề xuất ứng dụng tại Việt Nam” do Cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Xây dựng tổ chức ngày 10/11.
PGS.TS. Hoàng Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng. Ảnh: Diệp Anh/Bnews/Vnanet.vn
Phát biểu khai mạc, PGS.TS. Hoàng Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng, nhấn mạnh hạ tầng giao thông Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là mạng lưới đường cao tốc với quy mô gần 3.000 km vào cuối năm 2025 và hướng tới 5.000 km vào năm 2030. Trong dòng chảy phát triển ấy, cần xác định công tác quản lý, vận hành khai thác đường cao tốc phải đạt được các tiêu chí “an toàn – thông minh – bền vững”.
“Các nội dung thảo luận hôm nay không chỉ hỗ trợ hoàn thiện cơ chế, quy chuẩn và mô hình tổ chức khai thác, mà còn định hướng phát triển hệ thống đường cao tốc an toàn, thông minh và bền vững, phù hợp yêu cầu hiện đại hóa ngành giao thông vận tải trong giai đoạn mới,” ông Hoàng Tùng chia sẻ.
Theo ông Nguyễn Tiến Hồng, Phó Trưởng phòng Quản lý, Tổ chức giao thông (Cục Đường bộ Việt Nam), hệ thống đường bộ cao tốc đang góp phần giảm tải cho quốc lộ, rút ngắn thời gian hành trình và giảm chi phí logistics. Tuy nhiên, với mức tăng trưởng lưu lượng bình quân 15–18%/năm, có nơi trên 30%, nhiều vấn đề mới phát sinh trong công tác vận hành, tổ chức giao thông và bảo đảm an toàn. Đặc biệt, hiện tượng ùn tắc cục bộ thường xảy ra tại các nút ra vào đô thị lớn, trạm thu phí, đoạn giao cắt với quốc lộ, trong khi hệ thống giao thông thông minh (ITS) chưa được triển khai đồng bộ.
Các đại biểu đóng góp tham luận cho hội thảo. Ảnh: Diệp Anh/Bnews/Vnanet.vn
Theo đánh giá của Cục Đường bộ Việt Nam, công tác khai thác, vận hành và tổ chức giao thông trên hệ thống cao tốc Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp: từ quản lý tuyến sang quản lý mạng lưới toàn hệ thống; từ giám sát thủ công sang điều hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số; từ các giải pháp đơn lẻ sang cơ chế tích hợp đồng bộ giữa hệ thống ITS – chỉ số hiệu suất chính (KPI) – an toàn giao thông – năng lực vận hành.
“Bước chuyển này đặt ra yêu cầu tạo lập khuôn khổ thể chế và hạ tầng kỹ thuật đồng bộ giữa các chủ thể quản lý, vận hành, đầu tư và giám sát. Trên cơ sở đó, cần hình thành cơ chế điều phối thống nhất, nền tảng dữ liệu tập trung và quy trình quản trị hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, an toàn và bền vững của mạng lưới đường cao tốc Việt Nam giai đoạn 2026–2035”, ông Nguyễn Tiến Hồng cho biết.
Các tuyến đường cao tốc tại nước ta được đầu tư qua nhiều thời kỳ với quy mô và công nghệ khác nhau, đặt ra thách thức lớn trong quản lý, vận hành và bảo trì, Phó Cục trưởng Cục Đường bộ Việt Nam Nguyễn Thanh Hoài nhận định và cho rằng, tiến tới như các nước trên thế giới, Việt Nam cần tiếp cận công nghệ mới để vận hành, khai thác đồng bộ hệ thống đường cao tốc với mục tiêu an toàn, thông minh, hiệu quả và bền vững.
Phó Cục trưởng Cục Đường bộ Việt Nam Nguyễn Thanh Hoài. Ảnh: Diệp Anh/Bnews/Vnanet.vn
Theo ông Nguyễn Thanh Hoài, Luật Đường bộ năm 2024 và các nghị định hướng dẫn đã mở ra hành lang pháp lý mới, chuyển trọng tâm từ quản lý hành chính sang mô hình quản trị dựa trên chuẩn hóa quy trình và khai thác dữ liệu số. Đây là bước chuyển quan trọng, tạo nền tảng nâng cao hiệu quả vận hành và tính minh bạch trong quản lý nhà nước.
Theo đó, chuẩn hóa công tác quản lý an toàn giao thông là yêu cầu tiên quyết. Cần tăng cường rà soát hiện trường, đánh giá rủi ro, xác định điểm đen, điểm tiềm ẩn mất an toàn và xử lý kịp thời. Mỗi tuyến cao tốc cần có hồ sơ an toàn cập nhật thường xuyên, phản ánh đúng tình trạng kết cấu và nhu cầu khai thác thực tế.
Hướng tới điều hành khai thác thông minh, Cục Đường bộ Việt Nam đang triển khai nền tảng dữ liệu dùng chung, kết nối thông tin từ các khu quản lý, trạm thu phí, camera giám sát và thiết bị cảm biến. Hệ thống này giúp theo dõi, phát hiện sự cố và ra quyết định nhanh chóng, chính xác hơn.
TS. Nguyễn Thị Thu Ngà, Khoa Công trình, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải cho rằng yêu cầu nâng tầm quản lý, vận hành, khai thác và bảo đảm an toàn giao thông không còn dừng ở mức duy tu – bảo dưỡng theo tình trạng, mà phải chuyển sang quản lý dựa trên hiệu suất. Đây là xu hướng tất yếu được khẳng định trong các khung chính sách toàn cầu của PIARC, OECD/ITF, JICA, FHWA và các mô hình tiên tiến tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, châu Âu.
Theo đại diện Khoa Công trình, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, khung chỉ số hiệu suất chính (KPI) cho lĩnh vực quản lý và khai thác đường cao tốc Việt Nam nên gồm bốn nhóm cốt lõi: kỹ thuật – hạ tầng; hiệu quả vận hành kỹ thuật; an toàn và rủi ro; trải nghiệm và bền vững. Bộ chỉ số này không chỉ giúp giám sát hiệu quả vận hành mà còn hỗ trợ phát hiện sớm bất thường, tối ưu hóa điều phối giao thông và nâng cao an toàn.
Trường Đại học Xây dựng và Cục Đường bộ Việt Nam ký biên bản hợp tác ghi nhớ nhằm thúc đẩy hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ. Ảnh: Diệp Anh/Bnews/Vnanet.vn
Nhiều đại biểu cũng nhấn mạnh, phát triển bền vững hệ thống đường cao tốc phải gắn liền với hiệu quả đầu tư. Công tác bảo trì cần được coi là một phần trong vòng đời dự án. Các đơn vị quản lý, nhà đầu tư phải gắn trách nhiệm dài hạn với chất lượng công trình và hiệu quả khai thác.
Diệp Anh/Bnews/Vnanet.vn
Nguồn Bnews : https://bnews.vn/hien-dai-hoa-phuong-thuc-quan-ly-khai-thac-van-hanh-duong-cao-toc/395488.html