'Kể chuyện' di sản bằng công nghệ

'Kể chuyện' di sản bằng công nghệ
2 giờ trướcBài gốc
Cầu nối giữa quá khứ và hiện tại
Nhằm bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, trong những năm qua bên cạnh sự đồng hành của các cấp quản lý, cộng đồng, việc ứng dụng công nghệ đã và đang tạo ra nhưng diện mạo mới cho nhiều điểm đến, di tích văn hóa.
Đơn cử như như việc triển khai khai vé điện tử, tích hợp mã QR, cổng kiểm soát thông minh và thanh toán trực tuyến tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hoàng Thành Thăng Long, di tích Nhà tù Hỏa Lò, làng cổ Đường Lâm… Những ứng dụng này giúp minh bạch hóa quy trình, giảm ùn tắc; đồng thời gia tăng trải nghiệm văn minh, thuận tiện cho du khách.
Triển lãm nghệ thuật “Vũ khúc Thiền môn” tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia - Ảnh: Phạm Sỹ
Không những vậy, thông qua công nghệ, nhiều điểm đến di sản còn mang đến cho công chúng những trải nghiệm hấp dẫn, “vừa học, vừa chơi”. Mới đây, Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã ra mắt trải nghiệm di sản số “Việt Nam diệu sử”.
Chương trình trải nghiệm “Tinh hoa đạo học” tại Văn Miếu Quốc Tử Giám - Ảnh: Phạm Sỹ
Ông Lê Xuân Kiêu - Giám đốc Trung tâm cho biết: Đến với trải nghiệm, khách tham quan tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám có thể “gặp lại” những bậc tiền nhân một cách sống động; thậm chí có thể đứng cạnh họ, có thể giao tiếp ở một mức độ nhất định. Và qua những tương tác đó, khách tham quan sẽ hiểu rõ hành trình của một nho sinh thời xưa. Đó là hành trình, từ khi học ở lớp thầy đồ làng, đến lúc lều chõng đi thi, rồi vinh quy bái tổ.
Trước đó, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã ra mắt trải nghiệm “Tinh hoa đạo học” với “bữa tiệc” ánh sáng sử dụng công nghệ trình chiếu 3D mapping kết hợp âm nhạc dân tộc. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia giới thiệu không gian trưng bày, triển lãm nghệ thuật “Vũ khúc Thiền môn” bằng công nghệ số, mang đến một không gian Phật giáo trầm mặc nhưng đầy sức sống. Hay chương trình thực cảnh “Ngọc Sơn đêm huyền bí” tại đền Ngọc Sơn đã mang đến trải nghiệm khó quên cho du khách với sự kết hợp chiếu sáng 3D, múa đương đại và biểu diễn thực cảnh trả lại gươm báu cho thần Kim Quy trên hồ Hoàn Kiếm…
Bên cạnh việc lan tỏa, thông qua công nghệ, nhiều di sản cũng đã được “hồi sinh”, lý giải được nhiều luận điểm nghiên cứu khoa học, lịch sử. PGS.TS Bùi Minh Trí - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh thành (nay thuộc Viện Khảo cổ học), đơn vị chủ trì Dự án “Chỉnh lý, nghiên cứu, đánh giá giá trị và lập hồ sơ khoa học khu di tích Hoàng thành Thăng Long” - cho biết: Sau khoảng 15 năm triển khai (2011–2025), dự án đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trong nghiên cứu khảo cổ học đô thị, góp phần phục dựng diện mạo lịch sử của Hoàng thành Thăng Long. Đặc biệt, việc phục dựng mô hình kiến trúc cung điện thời Lý bằng công nghệ 3D, giúp công chúng hình dung rõ hơn vẻ tráng lệ của Kinh đô xưa. Việc xác định kết cấu đấu củng, kỹ thuật đỡ mái phức tạp, tinh xảo đã mở ra hướng nghiên cứu mới trong so sánh kiến trúc Việt Nam với các cung điện cổ ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Thời gian qua, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố Đô Huế cũng đã triển khai số hóa được hơn 25.000 trang tài liệu Hán Nôm, 172 hồ sơ bao gồm hồ sơ di tích, hồ sơ khảo cổ, hồ sơ di sản; số hóa được 250 ảnh sắc phong, 295 ảnh thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế… Trong đó, chỉ tính riêng số lượng hiện vật, cổ vật của triều Nguyễn đã có tới 207 cổ vật quý, đặc trưng với hiện vật/bộ hiện vật là bảo vật quốc gia đã được scan, số hóa 3D. Lượng dữ liệu số hóa khổng lồ và có giá trị kể trên đã, đang phục vụ đắc lực cho công tác thống kê, quản lý, bảo tồn cũng như nghiên cứu về các di sản tại Huế.
Khơi dòng lịch sử
Có thể nói, sau một thời gian dài thử nghiệm, nghiên cứu, việc ứng dụng công nghệ với di sản hiện nay đang mang đến “bức tranh” đa sắc cho ngành di sản văn hóa. Tuy nhiên, cuộc “chạy đua” với sự phát triển công nghệ cũng đang đặt ra vô vàn những thách thức.
Trải nghiệm di sản số “Việt Nam diệu sử” tại Văn Miếu Quốc Tử Giám - Ảnh: Phạm Sỹ
Hiện nay, nhiều tư liệu di sản chưa được số hóa đầy đủ hoặc bị thiếu hụt thông tin, gây khó khăn trong việc phân tích và tái tạo. Từng đồng hành trong dự án phục dựng bức tranh nổi tiếng “Thăng đường nhập thất” của danh họa Victor Tardieu, TS Trần Hậu Yên Thế, Giảng viên trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật (ĐHQG Hà Nội) nhìn nhận: “Trong quá trình sử dụng công nghệ AI để phục dựng tác phẩm, tôi nhận thấy vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế. Bởi công nghệ AI không phải “cây đũa thần” chúng ta chỉ cần chấm một cái là nó có thể tự hoàn thiện tác phẩm. AI có thể hỗ trợ chúng ta phục dựng tác phẩm cổ bằng khả năng chuyển đổi hình ảnh và tái hiện màu sắc; nhưng chính các nghệ sĩ mới là người xác định và chọn lọc chi tiết cho phù hợp. Các nghệ sĩ phải cung cấp cơ sở tri thức cho nó, xây dựng tiến trình chính xác từng bước để đảm bảo tác phẩm giữ được giá trị gốc mà không bị bóp méo”.
Bên cạnh đó, ngoài những hỗ trợ đắc lực của công nghệ thì yếu tố nguồn nhân lực để phát huy các di sản vẫn đang một “điểm nghẽn” cố hữu. Thực là phần lớn các cán bộ quản lý di sản tại các bảo tàng, trung tâm văn hóa, phòng văn hóa có nền tảng chuyên môn về văn hóa, bảo tồn, khảo cổ học; nhưng chưa được bồi dưỡng, đào tạo về truyền thông, công nghệ số hoặc kỹ năng sáng tạo nội dung. Ngược lại, các chuyên viên truyền thông tại các cơ quan báo chí, công ty truyền thông, doanh nghiệp công nghệ… lại thiếu hiểu biết nền tảng về giá trị, quy chuẩn và phương pháp bảo tồn di sản. Sự thiếu kết nối giữa hai nhóm chuyên môn này khiến việc sản xuất nội dung truyền thông di sản thường rơi vào tình trạng “lệch pha”.
Để giải bài toán này, theo TS Lê Thị Minh Lý - Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam, việc ứng dựng công nghệ trong lĩnh vực di sản là công việc của một tập thể, bao gồm những nhà nghiên cứu chuyên ngành, nhà bảo tàng học, nhà thiết kế, cán bộ kỹ thuật và cả những người làm giáo dục, truyền thông... Các sản phẩm phải là công trình sáng tạo cùng nhau, không đơn thuần chỉ là công nghệ. Quá trình này cần phải nghiên cứu tốt, sản phẩm tốt mới đáp ứng được nhu cầu của công chúng. Sản phẩm ấy mới đủ hàm lượng thông tin khoa học về văn hóa, mới đủ tính hấp dẫn và nó cần thích ứng về mặt kỹ thuật, nếu không, số hóa sẽ không còn ý nghĩa.
“Việc ứng dụng công nghệ là rất cần thiết nhưng cũng cần phải lưu ý đến giá trị nguyên gốc, trực quan. Cần nghiên cứu việc số hóa đến nơi đến chốn để tránh lãng phí. Việc quan trọng là đào tạo con người để nâng cao trình độ bảo quản, trưng bày hiện vật tại các di tích, bảo tàng cũng như bảo tồn các loại hình di sản khác” bà Lý bày tỏ.
Hoàng Minh
Nguồn Một Thế Giới : https://1thegioi.vn/ke-chuyen-di-san-bang-cong-nghe-242634.html