Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải và các ĐBQH tham dự phiên thảo luận tại Tổ 16
Tăng tính tập trung của nguồn lực, bảo đảm sự điều phối liên ngành
Thảo luận về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035, ĐBQH Đoàn Thị Lê An (Cao Bằng) nêu vấn đề, dù những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng, song khoảng cách chất lượng giữa các vùng miền vẫn còn lớn; hạ tầng số và cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới; đội ngũ giáo viên thiếu hụt, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn; đào tạo nghề và giáo dục đại học vẫn chưa cung ứng đủ nhân lực cho các ngành mũi nhọn.
Do đó, việc xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia này là hết sức cần thiết, nhằm tăng tính tập trung nguồn lực, bảo đảm sự điều phối liên ngành, và tạo bước đột phá cho hệ thống giáo dục trong thập kỷ tới. Tờ trình và dự thảo Nghị quyết đã đưa ra mốc thời gian thực hiện, mục tiêu cụ thể, nguồn lực thực hiện.
ĐBQH Đoàn Thị Lê An (Cao Bằng) phát biểu
Một trong những mục tiêu của Chương trình được các ĐBQH quan tâm là từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong đó, đến năm 2030, phấn đấu tối thiểu 30% số cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông triển khai thí điểm mô hình trường học thông minh ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý, giảng dạy và học tập, dạy học tích hợp STEM/STEAM, dạy các môn khoa học tự nhiên và STEM/STEAM bằng tiếng Anh.
Đến năm 2035, đầu tư để 100% số cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Đây là một định hướng lớn, thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng. Khẳng định điều này, song theo đại biểu Đoàn Thị Lê An, để hoàn thành được mục tiêu này cần đánh giá thẳng thắn những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất, nhân lực và môi trường triển khai.
Dẫn ví dụ từ điều kiện thực tế của Cao Bằng, đại biểu nêu rõ, trên địa bàn tỉnh hiện có gần 70% trường phổ thông, khi đánh giá, vẫn chưa đạt chuẩn về thiết bị công nghệ phục vụ học ngoại ngữ. Nhiều điểm trường lẻ của vùng dân tộc thiểu số còn chưa có phòng học kiên cố, việc đầu tư phòng chức năng cho tiếng Anh gần như không khả thi trong ngắn hạn. Mạng Internet dù đã phủ sóng rộng, nhưng tốc độ thấp, không ổn định, khó đáp ứng yêu cầu xây dựng môi trường ngôn ngữ số.
Từ thực tế này, đại biểu cho rằng, chỉ tiêu 30% số cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông có thể giảng dạy các môn tích hợp, tự nhiên hay STEM/STEAM bằng tiếng Anh vào năm 2030 có thể khả thi ở các tỉnh, thành phố lớn, nhưng “rất thách thức" tại khu vực miền núi như Cao Bằng, Tuyên Quang, Lai Châu, Đắk Lắk... - nơi điều kiện cơ sở vật chất chưa đồng bộ.
Nhấn mạnh “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay là đội ngũ giáo viên tiếng Anh đang còn thiếu ở nhiều địa phương, đại biểu Đoàn Thị Lê An nêu rõ, ở các tỉnh miền núi phía Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Điện Biên...), khoảng 40 - 50% số giáo viên tiếng Anh hiện chưa đạt trình độ năng lực ngoại ngữ theo Khung năng lực 6 bậc. Tại mầm non và tiểu học, giáo viên tiếng Anh còn thiếu nhiều hơn, do nguồn đào tạo giáo viên bậc này còn ít.
Quang cảnh thảo luận Tổ 16
Ở bậc phổ thông, số giáo viên vật lý, hóa học, sinh học, tin học, toán học có thể dạy bằng tiếng Anh hiện chưa đến 3% trên toàn quốc; tại Cao Bằng, tỉ lệ này gần như bằng 0. Ngoài ra, giáo viên ngoại ngữ chất lượng cao thường chọn đô thị hoặc khối trường tư thục có thu nhập tốt; chế độ thu hút hiện nay chưa đủ mạnh để thu hút giáo viên giỏi về vùng xa.
Về tính sẵn sàng của học sinh, phụ huynh và môi trường ngôn ngữ, theo đại biểu Đoàn Thị Lê An, nếu như tại đô thị, nhu cầu học tiếng Anh rất cao, thì tại các tỉnh miền núi, tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm trên 90%, tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai, nên việc yêu cầu tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai trong trường học là vô cùng thách thức.
“Hầu hết các tỉnh không có môi trường sử dụng tiếng Anh trong cộng đồng. Nếu chỉ học trong 2 - 3 tiết/tuần, học sinh khó đạt năng lực để học các môn khoa học bằng tiếng Anh”, đại biểu nêu vấn đề.
Dẫu vậy, đại biểu khẳng định, việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục là một "tầm nhìn đúng đắn và cấp thiết". Để đạt được con số 30% vào năm 2030 và 100% vào năm 2035, chúng ta cần đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên; hỗ trợ đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi; và có lộ trình phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng địa phương.
Đại biểu tin tưởng, với quyết tâm chính trị cao và chính sách đủ mạnh, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu này, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới.
Rà soát kỹ, tránh cùng nội dung phải làm 2 bộ hồ sơ, 2 báo cáo và áp dụng 2 cơ chế
Đánh giá chung về hai chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, dân số, ĐBQH Lý Thị Lan (Tuyên Quang) cho rằng, các dự thảo Nghị quyết đều đã phản ánh được tinh thần đổi mới và đột phá của Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân và Nghị quyết số 71/NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
ĐBQH Lý Thị Lan (Tuyên Quang) phát biểu
Từ thực tế triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia ở địa phương, đại biểu Lý Thị Lan cũng chỉ rõ, vướng mắc nhất triển khai các chương trình ở cơ sở là năng lực tổ chức thực hiện, khả năng hấp thụ vốn còn hạn chế, kết quả chưa đạt như mong muốn.
Ngoài ra, hai chương trình mục tiêu quốc gia đều còn nặng về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trong khi theo đại biểu, năng lực lập, thẩm định và triển khai đầu tư công ở cấp xã... còn đang vướng nhiều. Nếu không có những giải pháp cụ thể và thiết kế chương trình phù hợp với điều kiện thực thi tại cơ sở sẽ khó triển khai hiệu quả.
Bên cạnh các Chương trình mục tiêu quốc gia đang triển khai, tại Kỳ họp thứ Mười này, Chính phủ cũng trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư một số Chương trình mục tiêu quốc gia khác. Do vậy, đại biểu Lý Thị Lan đề nghị, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành tiếp tục rà soát, đối chiếu giữa các Chương trình để bảo đảm không trùng lắp hoạt động, chồng chéo nhiệm vụ.
“Nếu không rà soát kỹ thì khi triển khai 2 chương trình mục tiêu quốc gia này ở địa phương, đặc biệt là ở cấp xã, sẽ có nguy cơ cùng một nội dung phải làm 2 bộ hồ sơ, 2 báo cáo, áp dụng 2 cơ chế, rất khó cho thực thi ở cơ sở”, đại biểu nhấn mạnh.
Với mong Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035 sẽ được triển khai đồng bộ, thực chất, hiệu quả, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và chăm sóc sức khỏe nhân dân, ĐBQH Đặng Thị Bảo Trinh (Đà Nẵng) đề nghị, trong các đối tượng được thụ hưởng cần làm rõ nhóm “người yếu thế” là những ai, tránh trùng lặp với các nhóm đã được ưu tiên khác; đồng thời bổ sung người khuyết tật vào các đối tượng thụ hưởng.
ĐBQH Đặng Thị Bảo Trinh (TP. Đà Nẵng) phát biểu
Việc này bảo đảm phân bổ nguồn lực đúng mục tiêu, minh bạch và thống nhất trong triển khai thực hiện. Đồng thời, khi đối tượng được xác định rõ, các dự án thành phần sẽ dễ thiết kế các hoạt động hỗ trợ phù hợp, từ đó nâng cao tính khả thi và hiệu quả thực tế của chương trình, đặc biệt tại các vùng khó khăn, nơi nhu cầu hỗ trợ thường đa dạng và phức tạp.
Theo ĐBQH Tráng A Dương (Tuyên Quang), nhóm được ưu tiên thụ hưởng cần được mở rộng theo tinh thần Nghị quyết 72-NQ/TW, gồm: phụ nữ mang thai, trẻ em dưới 5 tuổi… Đồng thời, đề nghị bổ sung “vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo” vào địa bàn ưu tiên.
ĐBQH Tráng A Dương (Tuyên Quang) phát biểu
Đối với dự án 3 của Tiểu dự án 1 về khuyến khích sinh đủ 2 con, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh lưu ý, tỷ lệ sinh thay thế hiện đang giảm chủ yếu do các yếu tố kinh tế, giáo dục, môi trường làm việc, không chỉ do thiếu thông tin hay kỹ năng. Vì vậy, các hoạt động tập huấn, hướng dẫn… nếu không đi kèm giải pháp cụ thể về kinh tế, chăm sóc sức khỏe sinh sản, cơ sở hạ tầng y tế thì sẽ rất khó đạt hiệu quả.
Do vậy, đề nghị tách bạch rõ hoạt động mang tính chính sách/thể chế và hoạt động đầu tư/hỗ trợ mô hình, đồng thời bổ sung các hoạt động cụ thể, có thể đo lường kết quả, ví dụ ứng dụng công nghệ số để theo dõi biến động dân số, đầu tư khám sức khỏe tiền hôn nhân và chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Thanh Hải; Ảnh: Phạm Thắng