Khi nông nghiệp Việt 'cất cánh' từ đường băng sinh thái

Khi nông nghiệp Việt 'cất cánh' từ đường băng sinh thái
6 giờ trướcBài gốc
Nói về việc thực hành nông nghiệp sinh thái trong canh tác cà phê, ca cao, hồ tiêu để đáp ứng yêu cầu của ở những thị trường cao cấp và giảm khí thải nhà kính, ông Nguyễn Ngọc Luân, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Lâm San (tỉnh Đồng Nai), nhấn mạnh bản thân hợp tác xã (HTX) đã và đang nâng cao năng lực tổ chức sản xuất và quản lý để thích ứng tốt với vấn đề này.
Tiên phong hành động “cất cánh”
Bởi lẽ, theo ông Luân, người tiêu dùng (chủ yếu ở Mỹ, EU và Nhật) ngày càng yêu cầu cao hơn về các tiêu chuẩn chất lượng và môi trường. Quy định các quốc gia về an toàn thực phẩm ngày càng khắt khe hơn. Đơn cử như quy định chống phá rừng của EU (EUDR) hay vấn đề truy xuất nguồn gốc.
Việc chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp bền vững đang trở thành chiến lược hành động “cất cánh” cho các HTX, doanh nghiệp tiên phong trong ngành hàng nông sản Việt.
Vị giám đốc HTX này cũng cho biết mục tiêu xuyên suốt của HTX là tổ chức canh tác bền vững hồ tiêu, ca cao, cà phê, cây ăn trái. Đồng thời tăng thu nhập nông dân dựa vào xuất khẩu (XK) sang thị trường cao cấp.
“Chúng tôi đã chuyển đổi phương thức thâm canh sang sinh thái, cũng như tổ chức cho nông dân ứng phó với biến động thị trường. Song song đó là việc canh tác và chế biến của HTX cũng phải thích ứng với biến đổi khí hậu”, ông Nguyễn Ngọc Luân nói.
Còn đứng ở góc độ của một doanh nghiệp (DN) hàng đầu về XK trái cây, ông Nguyễn Đình Tùng, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty Vina T&T Group, nói rằng đã “may mắn” có được tư duy bền vững vì ngay từ đầu đã chọn XK vào một thị trường khó tính là Mỹ. Từ quan điểm ngay từ thuở ban đầu đó nên sau này công ty xác định, bền vững là những gì thế giới chuẩn bị thì công ty cần chuẩn bị chứ không phải thế giới yêu cầu.
“Chúng tôi tập huấn cho người nông dân giảm sử dụng phân bón, bảo vệ nguồn nước. Chúng tôi cũng cảnh báo tất cả các nhà cung cấp, kể cả bao bì lẫn logistics đều phải đáp ứng tiêu chuẩn xanh bền vững”, ông Tùng bộc bạch.
Vị tổng giám đốc này cho biết Vina T&T đang liên kết làm việc trực tiếp cùng với nhiều HTX ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Sơn La, Hưng Yên, Bắc Ninh. Thông qua các HTX liên kết tạo vùng nguyên liệu. Từ vùng nguyên liệu tạo ra các mã số vùng trồng và chứng chỉ liên kết với vùng trồng.
Ông Tùng chỉ rõ để liên kết giữa công ty với người nông dân cũng cần rất nhiều nỗ lực vì trăm người trăm ý. Điều đầu tiên phải nói chuyện được với bà con, làm bà con hiểu mình. Khi được bà con thương rồi thì người ta nghe lời mình, người ta làm GlobalGAP, người ta làm tiêu chuẩn Organic, người ta bảo vệ sản phẩm.
“Để làm việc được với bà con thì chúng tôi có rất nhiều những câu chuyện như vậy. Đến khi cần chuyển đổi xanh công ty vẫn làm được bởi vì được bà con thương, bà con hiểu, bà con tin tưởng”, ông Tùng tâm sự thêm.
Từ những chia sẻ nêu trên để thấy việc chuyển đổi sang “đường băng” nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp bền vững không chỉ là định hướng chính sách mà đang trở thành chiến lược hành động “cất cánh” của các HTX, DN tiên phong. Điều này giúp cho sản phẩm của họ có được chỗ đứng vững chắc trên những thị trường cao cấp và khó tính.
Cũng nên nhắc đến cuộc khảo sát của CTCP Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) được đưa ra trong thượng tuần tháng 10/2025 cho thấy một con số rất ấn tượng: 72,73% DN hàng đầu trong ngành nông nghiệp công nghệ cao cho biết họ đã có chiến lược ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) toàn diện và đang tích cực triển khai, cho thấy cam kết mạnh mẽ và sự trưởng thành trong tư duy phát triển bền vững.
Nắm bắt các cơ hội mới
Trong bối cảnh đó, theo Vietnam Report, thị trường tín chỉ carbon đang nổi lên như một cơ hội mới để biến cam kết ESG thành doanh thu trực tiếp. Hai bằng chứng then chốt củng cố xu thế này: Thứ nhất là Việt Nam đã thu về 51,5 triệu USD từ thương vụ bán 10,3 triệu tín chỉ REDD+ cho Ngân hàng Thế giới (World Bank) hồi năm rồi – thương vụ lớn nhất Đông Á. Thứ hai là riêng ngành nông nghiệp có thể tạo ra khoảng 57 triệu tín chỉ mỗi năm nếu tận dụng tối đa các giải pháp canh tác carbon thấp.
Cùng với giá trị giao dịch toàn cầu vượt trăm tỷ USD và lộ trình thị trường carbon nội địa (thí điểm 2025 - 2027, vận hành đầy đủ từ 2028), nông nghiệp sinh thái của Việt Nam đang đứng trước một “đường băng” thuận lợi để cất cánh.
Khảo sát của Vietnam Report cũng cho thấy 68,2% DN trong ngành nông nghiệp công nghệ cao đang tìm hiểu cơ hội tín chỉ carbon, trong khi chỉ 18,2% đã có dự án cụ thể – phản ánh tiềm năng lớn nhưng cũng đòi hỏi khung pháp lý rõ ràng và mô hình kinh doanh khả thi. Một số hướng đi triển vọng gồm: Lúa carbon thấp với 7 triệu ha đất canh tác; lâm nghiệp REDD+ với 15 triệu ha rừng và tỷ lệ che phủ 42%; chăn nuôi – biogas và thủy sản carbon thấp.
Ngoài ra, với kinh nghiệm nghiên cứu sâu rộng về ngành nông sản thực phẩm Việt, Ts. Lê Vi An Tâm (Đại học RMIT) cho rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm buộc các DN phải xem xét lại danh mục sản phẩm, cũng như đầu tư vào Nghiên cứu và phát triển (R&D) hệ thống kiểm soát rủi ro. Những DN gặp khó khăn nhất trong việc đáp ứng chi phí thực hành an toàn thực phẩm thường là những đơn vị có năng lực thích ứng hạn chế.
Ts. Tâm nhấn mạnh ba khía cạnh quan trọng cho quá trình chuyển đổi hệ thống nông sản thực phẩm: Thứ nhất là phát triển các giống cây trồng có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu. Thứ hai là áp dụng các biện pháp canh tác nông nghiệp thông minh, ít phát thải và tạo điều kiện cho nông hộ nhỏ tham gia. Thứ ba là hoàn thiện cơ sở hạ tầng chuỗi cung ứng để giảm thất thoát lương thực và đảm bảo chất lượng, an toàn.
Không chỉ có vậy, việc ưu tiên bước sang “đường băng” nông nghiệp sinh thái và nắm bắt các cơ hội mới vẫn còn nhiều việc phải làm đối với ngành hàng nông sản Việt.
Trong đó, điều không thể thiếu là phát triển nông nghiệp đa dạng sinh học, áp dụng nông nghiệp thông minh thích ứng khí hậu (CSA). Ngoài ra, cần chuyển đổi hệ thống nông nghiệp, gồm: Thuận thiên, tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, tái sử dụng chất thải, nông nghiệp carbon thấp, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp bảo tồn, nông nghiệp đa mục tiêu, đa giá trị, nông lâm kết hợp…
Hơn thế nữa, theo giới chuyên gia, điều quan trọng là các DN, HTX cần đầu tư vào công nghệ. Cụ thể là làm nông nghiệp chính xác, nông nghiệp thông minh, quản lý chất thải, tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm phát thải khí nhà kính và tăng năng suất.
Song song đó là cần xây dựng chuỗi giá trị và liên kết sản xuất. Cụ thể, các HTX liên kết với DN chuẩn hóa quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo đầu ra ổn định cho nông sản. Mặt khác, cần tăng cường chuyển giao khoa học kỹ thuật và tri thức bản địa, bao gồm kết hợp công nghệ hiện đại với kinh nghiệm truyền thống.
Thế Vinh
Nguồn Vnbusiness : https://vnbusiness.vn/viet-nam/khi-nong-nghiep-viet-cat-canh-tu-duong-bang-sinh-thai-1110032.html