Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, lũy kế từ đầu năm đến 15/12/2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt 24,3 tỷ USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm trước (YoY). Tổng nhập khẩu hàng nông sản trong kỳ là 11,8 tỷ USD.
Về xuất khẩu, rau quả dẫn đầu kim ngạch với 6,85 tỷ USD, mức cao nhất giai đoạn 2013 – 2024. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu rau quả trong kỳ tăng 27,3%.
Trong kỳ, ba mặt hàng xuất khẩu khác cũng ghi nhận kim ngạch kỷ lục hơn 10 năm là gạo với 5,5 tỷ USD (tăng 21,4% so với cùng kỳ); cà phê với 5,19 tỷ USD (tăng 32,3% YoY) và hạt điều với 4,15 tỷ USD (tăng 19,7% YoY).
Trong kỳ, Việt Nam còn thu về 1,26 tỷ USD từ xuất khẩu hạt tiêu, tăng 45% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2024 cũng là năm hạt tiêu lấy lại mốc tỷ USD sau 6 năm.
Sắn và sản phẩm từ sắn xuất khẩu trong kỳ đạt 1,1 tỷ USD, giảm 10,1% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do thị trường xuất khẩu lớn nhất là Trung Quốc (chiếm hơn 90% kim ngạch) giảm so với cùng kỳ. Cụ thể, 11 tháng đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 2,1 triệu tấn sắn sang Trung Quốc với giá trị 958 triệu USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước.
Chè xuất khẩu trong kỳ của Việt Nam cũng đạt 243 triệu USD, tăng 24,3% so với cùng kỳ năm trước.
Giá xuất khẩu trung bình các mặt hàng nông sản cũng ghi nhận mức tăng trưởng cao, trong đó cà phê và hạt tiêu tăng trưởng vượt trội với hai con số.
Cụ thể, giá cà phê trung bình xuất khẩu đạt 4.105 USD/tấn, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm trước. Giá hạt tiêu cũng tăng tới 53,5% YoY, lên mức 5.229 USD/tấn. Hạt điều xuất khẩu trong kỳ có mức giá trung bình đạt 5.970 USD/tấn, tăng 5,3% YoY; chè với 1.759 USD/tấn, tăng 1% YoY.
Trong kỳ, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng gạo tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, từ mức 572 USD/tấn tại kỳ trước lên 626,9 USD tại kỳ này. Sắn và sản phẩm từ sắn xuất khẩu cũng tăng 1,5% YoY, đạt 445 USD/tấn.
Về nhập khẩu, từ đầu năm đến ngày 15/12/2024, Việt Nam chi 11,8 tỷ USD để nhập khẩu hàng nông sản từ thế giới, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Hạt điều là mặt hàng nhập khẩu nhiều nhất với 3,1 tỷ USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước.
Ngô là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ hai với 2,83 tỷ USD, tăng 4,9% so với mức 2,7 tỷ USD tại kỳ trước. Các mặt hàng đứng sau là rau quả với 2,2 tỷ USD, tăng tới 20,8% YoY; lúa mì với 1,49 tỷ USD, giảm 0,7% YoY.
Trong kỳ, Việt Nam nhập khẩu sữa và đậu tương đạt lần lượt 1,07 tỷ USD (giảm 3,4% so với cùng kỳ) và 1,05 tỷ USD (giảm 7,3% YoY).
Về giá, lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/12/2024, giá xuất khẩu hạt điều trung bình đạt 1.277 USD/tấn, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước.
Trái ngược với đà tăng của hạt điều, giá nhập khẩu lúa mì giảm 17,7% so với cùng kỳ, còn 274,9 USD/tấn. Giá nhập khẩu ngô và đậu tương giảm lần lượt 18,6% YoY (đạt 242,6 USD/tấn) và 18,8% YoY (đạt 511,7 USD/tấn).
Lê Hồng Nhung