Kinh tế tuần hoàn – trụ cột của mô hình tăng trưởng mới

Kinh tế tuần hoàn – trụ cột của mô hình tăng trưởng mới
2 giờ trướcBài gốc
Đây là thống nhát chung của các chuyên gia, nhà quản lý và DN tại diễn đàn “Thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam: Chính sách và kết nối hành động” diễn ra ngày 10/11, do Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.
Chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu
Theo GS.TS Lê Văn Lợi – Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, KTTH là xu thế tất yếu trong bối cảnh thế giới chuyển đổi kép: chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Mô hình này giúp giảm khai thác tài nguyên, giảm lượng chất thải phát sinh và tái tạo giá trị từ chính các phụ phẩm của sản xuất và tiêu dùng. “KTTH không phải là khái niệm mới, nhưng là cách tiếp cận mới trong tổ chức nền kinh tế” - GS.TS Lê Văn Lợi nhấn mạnh.
GS.TS Lê Văn Lợi – Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phát biểu tại diễn đàn.
Điều này phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam nêu trong Văn kiện Đại hội XIII: Chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ sang mô hình dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất. Theo PGS.TS Bùi Quang Tuấn (Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới), KTTH chính là công cụ để chuyển từ phát triển theo “chiều rộng” sang phát triển theo “chiều sâu”, tức tập trung vào chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng.
Một dấu mốc quan trọng là Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 23/01/2025 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH đến năm 2035. Theo đó, KTTH được xác định là động lực tăng trưởng mới, gắn với thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và cam kết phát thải ròng bằng 0.
Chia sẻ về quan điểm thực thi KTTH, TS Lại Văn Mạnh (Bộ NN&MT) nhấn mạnh, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo ban hành chính sách và điều phối hệ thống, còn DN và người dân là trung tâm của quá trình chuyển đổi. TS Lại Văn Mạnh cho rằng, công nghệ số, dữ liệu và đổi mới sáng tạo là “chìa khóa” giúp tối ưu hóa chu trình vật chất, tái sử dụng năng lượng và tạo giá trị gia tăng mới từ chất thải.
Mặc dù định hướng và khung chính sách bước đầu đã rõ, KTTH ở Việt Nam vẫn chủ yếu dừng ở mô hình thí điểm quy mô nhỏ. Nhiều ngành sản xuất còn phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, năng suất lao động thấp, cùng với đó là hạ tầng xử lý chất thải và tái chế chưa hoàn chỉnh.
Trong lĩnh vực đô thị, TS Nguyễn Thị Hạnh Tiên (Đại học Phenikaa) cho biết, đến 70% chất thải rắn sinh hoạt hiện nay vẫn được xử lý bằng chôn lấp, gây lãng phí tài nguyên và phát thải khí nhà kính. Việt Nam có gần 300 lò đốt rác, nhưng đa số quy mô nhỏ, chưa đạt chuẩn, dẫn tới nguy cơ ô nhiễm thứ cấp. Theo TS Nguyễn Thị Hạnh Tiên, giải pháp cốt lõi là tổ chức phân loại rác tại nguồn như một yêu cầu bắt buộc; đồng thời phát triển hệ sinh thái tái chế gắn với trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR).
Ở chiều ngược lại, DN Việt Nam cũng đang đối diện áp lực từ thị trường toàn cầu. Nhiều quốc gia áp dụng quy định về vòng đời sản phẩm, yêu cầu giảm phát thải và thiết kế sinh thái. Ví dụ, Liên minh châu Âu sẽ triển khai Quy định Thiết kế sinh thái cho sản phẩm (ESPR) trong thời gian tới. Điều này buộc DN xuất khẩu phải điều chỉnh quy trình sản xuất theo hướng tiết kiệm nguyên liệu, tái chế phụ phẩm và kiểm soát khí thải trong toàn chuỗi giá trị. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để DN nâng cấp công nghệ và gia nhập chuỗi cung ứng xanh thế giới.
Quang cảnh diễn đàn.
Hướng tới một hệ sinh thái tuần hoàn toàn diện
KTTH không chỉ tạo ra lợi ích môi trường mà còn hình thành các chuỗi giá trị mới. Khi phế phẩm của ngành này trở thành nguyên liệu cho ngành khác, chi phí đầu vào giảm, giá trị gia tăng tăng và việc làm xanh được mở rộng. Đây chính là nền tảng để nền kinh tế Việt Nam hướng tới tự cường, cạnh tranh bền vững và tăng trưởng dựa trên năng suất.
Để mô hình KTTH thực sự phát huy hiệu quả, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần triển khai đồng bộ một số nhóm giải pháp then chốt. Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và khung pháp lý để bảo đảm thống nhất từ T.Ư đến địa phương, đặc biệt là các tiêu chuẩn kỹ thuật về tái chế, tái sử dụng và thiết kế sản phẩm. Thứ hai, thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng chuyển đổi số trong giám sát vòng đời vật liệu, từ đó minh bạch hóa dòng nguyên liệu và giảm thất thoát tài nguyên. Thứ ba, phát triển thị trường tín chỉ carbon và cơ chế khuyến khích DN đầu tư công nghệ xanh. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò của các tổ chức trung gian như trung tâm đổi mới sáng tạo xanh, mạng lưới DN tuần hoàn và các liên minh tái chế theo ngành hàng. Đặc biệt, truyền thông và giáo dục thay đổi hành vi tiêu dùng đóng vai trò quyết định trong việc hình thành văn hóa tuần hoàn trong cộng đồng.
Tuy vậy, để KTTH thực sự lan tỏa, yếu tố quyết định không chỉ nằm ở công nghệ hay chính sách, mà còn ở thay đổi nhận thức của toàn xã hội. Mỗi DN cần coi tuần hoàn là chiến lược phát triển, không phải trách nhiệm tuân thủ. Mỗi hộ gia đình cần hình thành thói quen phân loại rác, tiêu dùng tiết kiệm và ưu tiên sản phẩm thân thiện. Và mỗi chính quyền địa phương cần chủ động triển khai mô hình phù hợp điều kiện địa bàn.
Phương Nga
Nguồn KTĐT : https://kinhtedothi.vn/kinh-te-tuan-hoan-tru-cot-cua-mo-hinh-tang-truong-moi.902818.html