Kỷ niệm một thời làm báo

Kỷ niệm một thời làm báo
7 giờ trướcBài gốc
Vào miền Đông Nam Bộ, tôi được bổ sung về Trung đoàn 2 (Trung đoàn 174, thuộc Sư đoàn 5) đánh địch ở chiến trường Lộc Ninh - Đường 13 rồi hành quân khẩn cấp xuống Đồng bằng sông Cửu Long trước khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973.
Từ “tờ báo” của Trung đoàn…
Bổ sung về Tiểu đoàn 6, tôi làm Trung đội trưởng thuộc Đại đội 11, sau đó được điều về Ban Chính trị Trung đoàn 174. Đại úy Lương Quý Mão, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn, quê Thái Bình, đã giao nhiệm vụ: “Cậu làm trợ lý tuyên huấn Trung đoàn trực tiếp phụ trách tờ tin, đội tuyên văn và câu lạc bộ Trung đoàn”.
Nhận nhiệm vụ tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì cấp trên giao nhiệm vụ đúng nguyện vọng. Lo vì mới mẻ quá, không biết có hoàn thành nhiệm vụ được không. Suốt đêm ấy tôi thao thức không thể nào ngủ được. Ước mơ làm “phóng viên chiến trường” đã trở thành sự thật. Từ nhân viên chép tin đọc chậm trên Đài Tiếng nói Việt Nam ở Tiểu đoàn 31 huấn luyện “tân binh C” (chiến sĩ mới từ hậu phương vào), tôi đã trở thành “phóng viên” và trực tiếp tổ chức bài vở, in ấn, như nhiệm vụ của thư ký tòa soạn ở các tờ báo lớn.
Chúng tôi vừa học vừa làm. Học là cách để nâng cao nghiệp vụ. Tôi chăm chú nghe từng chương trình, bài viết trên đài phát thanh, đặc biệt chương trình phát thanh Quân đội nhân dân. Tôi trực tiếp lên đề cương từng số báo thông qua chủ nhiệm rồi tổ chức bài vở, in ấn, phát hành. Rất may được các anh trong tiểu ban tuyên huấn như anh Chưởng, anh Chiến... giúp đỡ. Lại được hai họa sĩ là Nguyễn Trọng Thanh, Nguyễn Văn Ẩm - sinh viên Trường Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội vừa bổ sung vào hỗ trợ nên các số “báo Trung đoàn” ra đều đặn, số sau chất lượng hơn số trước cả về nội dung và hình thức. Đóng hai vai (trợ lý và phóng viên), xuống đơn vị, tôi làm nhiệm vụ nắm tình hình, truyền đạt nghị quyết, chỉ đạo của cấp trên, đồng thời lấy tư liệu, gặp gỡ nhân vật để viết bài. Các số báo đặc biệt gắn với ngày kỷ niệm lớn hoặc Tết Nguyên đán, chúng tôi in màu với số trang tăng hơn. Việc đánh máy trên giấy sáp và in roneo do Ẩm và Thanh đảm nhiệm. Phải công nhận hai họa sĩ chiến trường này tài hoa nên số báo nào cũng được cấp trên và cán bộ chiến sĩ khen. Tôi bắt đầu được đánh giá có “tố chất” làm báo từ ngày đó. Chưa qua trường lớp chuyên môn, tôi đã xây dựng đề cương cho từng số báo đúng chủ đề với các chuyên mục mà bạn đọc ưa thích. Ngoài mảng tin, gương người tốt, việc tốt làm nòng cốt, tôi mở chuyên mục “Chuyện cảnh giác”, “Chuyện cười chiến sĩ” và có số đăng cả thơ, ghi chép, bút ký, truyện ngắn...
Các họa sĩ Nguyễn Trọng Thanh và Nguyễn Văn Ẩm có tài vẽ chân dung. Chúng tôi mở chuyên mục giới thiệu chân dung các Anh hùng Quân đội được tuyên dương tại Trung đoàn như Bế Văn Đàn, La Văn Cầu, Lý Văn Mưu, Đàm Văn Ngụy...
... đến Báo Quân đội nhân dân
Sau Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi được điều về Báo Quân khu 7 - tờ báo kế tục sự nghiệp của Báo Quân Giải phóng Miền Nam. Ấy là lúc ở biên giới Tây Nam, bọn phản động Pol Pot - Ieng Sary xua quân tràn sang tàn sát đồng bào ta. Một lần nữa tôi được làm phóng viên chiến trường. Anh Mai Bá Thiện phụ trách Báo Quân khu 7 phân công tôi và phóng viên Xuân Hòa theo Sư đoàn 5 và Sư đoàn 310 thọc sâu vào đất Campuchia và tham gia chiến dịch cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Hơn 10 năm từ 1977 đến 1990, chúng tôi thường xuyên bám sát các đơn vị Bộ đội tình nguyện Việt Nam từ Mặt trận 779 đến 479 và các đoàn chuyên gia giúp bạn xây dựng lực lượng. Cuối năm 1988, từ Báo Quân khu 7 tôi được điều về Báo Quân đội nhân dân - cơ quan đại diện phía Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhận nhiệm vụ được ít ngày, Thiếu tướng - Tổng Biên tập Trần Công Mân phân công tôi tháp tùng ông công tác tại Campuchia. Tham gia đoàn có Đại tá Vũ Linh - Trưởng ban Đại diện Báo Quân đội nhân dân tại thành phố Hồ Chí Minh và hai nữ phóng viên Hồng Điệp và Minh Tâm thuộc Phòng Thời sự quốc tế. Trở lại Campuchia, chiến trường quen thuộc, lại bập bẹ vài tiếng Campuchia, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ chuyến công tác với Tổng Biên tập. Có lẽ vì thế mà sau này Thiếu tướng Trần Công Mân chỉ định tôi trở lại Campuchia trước khi Bộ đội tình nguyện Việt Nam rút quân về nước. Biết tôi thích viết ký, các nhà báo Vũ Linh (Trưởng ban), Phạm Đình Trọng (Phó ban) phân công tôi viết những sự kiện khó và nhạy cảm, trong đó có bài điều tra nhằm trả lại danh dự cho Bộ đội tình nguyện Việt Nam qua bài viết không đúng sự thật về nạn video đen diễn ra lúc bấy giờ, do đích thân Tổng Biên tập chỉ đạo. Kết quả, người viết bài báo không đúng sự thật phải chịu trách nhiệm pháp lý. Chuyện không vui nhưng cảm động. Tôi trở lại Mặt trận 479 được cán bộ chiến sĩ hoan nghênh. Thiếu tướng Tư lệnh Mặt trận 479 Khiếu Anh Lân nói: “Cảm ơn Báo Quân đội nhân dân đã dũng cảm đấu tranh bảo vệ danh dự cho Bộ đội tình nguyện”.
Một kỷ niệm nữa, đó là nhân kỷ niệm 20 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1995), tôi được phân công viết về xe tăng đầu tiên húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập trưa ngày 30-4-1975. Tôi không chọn thể tài điều tra mà chọn ghi chép, bút ký để nói rõ về sự kiện này. Bài ghi chép “Hai mươi năm sau cuộc hội ngộ kỳ thú” đăng Báo Quân đội nhân dân kể về kíp xe tăng mang số hiệu 390 do Chính trị viên đại đội 4 (Lữ đoàn xe tăng 203, Quân đoàn 2) Vũ Đăng Toàn chỉ huy lần đầu tiên được công bố trên báo chí nhận được giải cao của Hội Nhà báo thành phố Hồ Chí Minh và được bạn đọc trong và ngoài quân đội hoan nghênh. Mới đây, dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi đã gặp lại những chiến sĩ xe tăng trên xe 390 và 843. Tại Hội trường Thống Nhất (Dinh Độc Lập cũ), các anh Vũ Đăng Toàn và các anh Tập (lái xe), Nguyên (xạ thủ)... đã mang hoa tặng lại chúng tôi - những người làm báo Quân đội nhân dân.
Điều còn lại
Sau hơn nửa thế kỷ làm báo, từ “báo Trung đoàn” đến Báo Quân khu 7, Báo Quân đội nhân dân rồi Báo Sài Gòn Giải Phóng, rồi làm công tác quản lý nhà nước về báo chí đã để lại trong tôi biết bao kỷ niệm vui buồn. Điều còn lại đó là bí quyết thành công nghề nghiệp. Phải chăng đó chính là cái TÂM của người làm báo?!
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, cái TÂM của người làm báo cần được nhắc lại như một trong điều tiên quyết của người làm báo cách mạng. Cái TÂM đó thể hiện ở phương châm làm báo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Trước khi viết nên hỏi: Viết cho ai, viết để làm gì và viết như thế nào?
Viết báo để phục vụ lợi ích đất nước và dân tộc. Viết báo để phục vụ nhân dân, phục vụ nhiệm vụ cách mạng. Viết ngắn gọn, dễ hiểu, bảo vệ và phát huy tiếng nói chữ viết của dân tộc là câu trả lời của chúng ta.
Những người làm báo hôm nay và mai sau nên nhớ mãi điều ấy.
_______
Tác giả Trần Thế Tuyển - Nguyên Trưởng ban Đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân, nguyên Phó Cục trưởng Cục Báo chí (Bộ Văn hóa Thông tin - nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), nguyên Tổng Biên tập Báo Sài Gòn Giải Phóng.
Trần Thế Tuyển
Nguồn Hà Nội Mới : https://hanoimoi.vn/ky-niem-mot-thoi-lam-bao-706060.html