Nhiều bất cập, điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản cần sớm được tháo gỡ để thúc đẩy phát triển kinh tế. Ảnh: ST
Rút ngắn thời gian, nâng cao hiệu quả giải quyết vụ việc
Báo cáo tại Phiên họp thứ 49 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới đây, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Văn Tiến cho biết, tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014 cho thấy còn nhiều điểm nghẽn trong việc giải quyết các vụ phá sản. Mặc dù nhu cầu xử lý phá sản doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX) là khá lớn, song kết quả giải quyết chưa tương xứng; thời gian xử lý một vụ việc phá sản thường kéo dài, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam.
Chính vì vậy, việc xây dựng Luật Phá sản (sửa đổi) nhằm khắc phục những bất cập, tháo gỡ các điểm nghẽn, tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho DN, HTX phục hồi sản xuất, kinh doanh; góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển lành mạnh, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Trong Dự thảo, nhiều quy định đã được bổ sung, hoàn thiện theo hướng linh hoạt, nhanh chóng, hiệu quả hơn. Đáng chú ý là việc thiết kế thêm thủ tục phục hồi, phá sản rút gọn để rút ngắn thời gian, nâng cao hiệu quả giải quyết vụ việc. Dự thảo cũng đưa ra các cơ chế cắt giảm, lược bỏ một số thủ tục không cần thiết, đơn giản hóa quy trình nhằm giảm bớt độ phức tạp và kéo ngắn tiến độ.
Đơn cử như, Luật hiện hành quy định thời gian kiểm kê tài sản của DN, HTX là 30 ngày, có thể gia hạn thêm 30 ngày; Dự thảo mới rút ngắn xuống còn 15 ngày và gia hạn tối đa 15 ngày. Thời hạn gửi giấy đòi nợ rút từ 30 ngày xuống còn 15 ngày; thời gian lập danh sách chủ nợ giảm từ 15 ngày còn 7 ngày… Ngoài ra, Dự thảo còn lược bỏ quy định về điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ, đơn giản hóa thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh để đẩy nhanh tiến độ giải quyết phá sản.
Đồng tình với quan điểm của cơ quan soạn thảo, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, thủ tục phục hồi và thủ tục phá sản phải gắn với chính sách hỗ trợ cụ thể, tạo điều kiện để DN, HTX tiếp tục hoạt động khi có khả năng. Quan trọng hơn, phải rút ngắn thời gian xử lý; bởi “đã phá sản mà kéo dài thì thiệt hại càng lớn”. Ông cũng lưu ý cần nghiên cứu đơn giản hóa hơn nữa thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, tăng cường sự phối hợp giữa tòa án với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan để bảo đảm hiệu quả.
“Qua báo cáo tổng kết cho thấy, nhiều vụ việc kéo dài quá lâu, có vụ 10 năm, 16 năm đến nay vẫn chưa xong. Chúng ta phải xem lại vấn đề thời gian”- Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.
Ở góc độ cơ quan quản lý, Thứ trưởng Bộ Tài chính Hồ Sỹ Hùng cũng cho rằng thủ tục phá sản, phục hồi phải nhanh mới mang lại môi trường kinh doanh thuận lợi. Theo ông, “khi DN đã chấp nhận phá sản thì càng làm nhanh càng tốt; càng nhanh thì môi trường càng thông thoáng và chi phí càng giảm”.
Gỡ “nút thắt” về chi phí phá sản
Ngoài thủ tục kéo dài, một “nút thắt” lớn khác là vấn đề chi phí. Theo quy định hiện hành, DN phải nộp lệ phí, tạm ứng chi phí, chi phí phục hồi và phá sản. Tuy nhiên, trên thực tế, khi đã rơi vào tình trạng phá sản, phần lớn DN, HTX đều kiệt quệ, không còn khả năng tài chính để ứng trước.
Tôi đề xuất nghiên cứu cơ chế thành lập quỹ hỗ trợ phục hồi và phá sản - một quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, nguồn hình thành quỹ từ vốn điều lệ ban đầu do ngân sách cấp một phần từ phí phá sản, một phần từ tài sản thu hồi và huy động từ tổ chức, cá nhân. Cách làm này vừa giảm gánh nặng cho ngân sách, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm có nguồn để xử lý những vụ việc thật sự cần thiết.
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh
Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Văn Tiến cho biết, cả quản tài viên và cơ quan tiến hành tố tụng đều cần kinh phí để hoạt động, song DN thì không còn tiền. Luật hiện hành lại chưa có cơ chế để ngân sách hoặc quỹ nào bảo đảm ứng trước, khiến hồ sơ bị “treo”, tài sản hao mòn, quyền lợi chủ nợ và người lao động không được bảo vệ. “Có nhiều DN ‘chết mà không chôn được’ chỉ vì không có tiền nộp chi phí phá sản” - ông Tiến nói.
Tiến sĩ Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam - cũng nhận định, đa số DN khi lâm vào cảnh phá sản đã cạn kiệt nguồn lực tài chính, việc buộc họ phải tự nộp chi phí là bất khả thi.
Để tháo gỡ, cơ quan soạn thảo đề xuất quy định tạm ứng chi phí phá sản do ngân sách nhà nước (NSNN) bảo đảm trong những trường hợp DN, HTX không còn tài sản hoặc có nhưng không thể bán được. Đây được coi là giải pháp nhằm khơi thông bế tắc, bảo đảm tiến độ giải quyết.
Tuy vậy, từ góc độ cơ quan thẩm tra, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng cần phải đánh giá kỹ tác động của việc dùng NSNN chi trả chi phí phá sản, để tránh lạm dụng, thất thoát ngân sách. Đồng thời, phải xác định rõ nguồn kinh phí, trình tự, thủ tục phù hợp với quy định của Luật NSNN.
Nhiều ý kiến trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng tình với quan điểm này và cho rằng, việc sử dụng trực tiếp NSNN để tạm ứng chi phí phá sản là chưa phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, lại tạo thêm áp lực cho cân đối ngân sách. Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Lê Thị Nga đề nghị, ngoài đánh giá tác động, cần lấy ý kiến Chính phủ để bảo đảm tính khả thi.
Đồng thời, để xử lý triệt để vấn đề, Tòa án nhân dân tối cao cần tiếp tục rà soát các quy định về lệ phí, chi phí phục hồi và phá sản trong Dự thảo Luật để bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các luật liên quan.
Làm rõ thêm, ông Nguyễn Văn Tiến cho biết quan điểm của Chính phủ là miễn loại phí này. Tuy nhiên, để quy trình vẫn vận hành trơn tru, đặc biệt là có kinh phí trả cho quản tài viên, cần một nguồn tài chính cụ thể. Do đó, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét phương án thành lập một quỹ riêng hoặc sử dụng NSNN cho mục đích này. “Nếu không có cơ chế thì rất khó tháo gỡ những vướng mắc hiện nay” - ông Tiến nhấn mạnh.
Hướng tới khung pháp lý minh bạch, khả thi
Việc sửa đổi Luật Phá sản lần này được kỳ vọng sẽ khắc phục những bất cập tồn tại suốt thời gian qua, từ thủ tục kéo dài, chi phí vướng mắc, đến cơ chế phối hợp chưa hiệu quả. Một khung pháp lý minh bạch, khả thi sẽ là “cứu cánh” để DN, HTX yếu kém có thể phục hồi hoặc được xử lý nhanh chóng, gọn gàng, giảm thiểu thiệt hại cho nền kinh tế.
Nếu tháo gỡ được các “nút thắt” này, Luật Phá sản (sửa đổi) không chỉ giúp hệ thống tư pháp hoạt động hiệu quả hơn, mà còn góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của chủ nợ, người lao động, đồng thời thúc đẩy một nền kinh tế cạnh tranh, minh bạch và bền vững./.
Đ. KHOA