Lễ cúng cây chè tổ là biểu tượng đẹp cho tinh thần đoàn kết, lòng biết ơn và khát vọng vươn lên của bà con người Mông ở Suối Giàng. Ảnh: Việt Bắc
Chè Shan tuyết - hồn cốt Suối Giàng
Từ tờ mờ sáng, những con đường đất dẫn về các thôn Giàng A, Giàng B, Pang Cáng, Bản Mới, Kang Kỷ, Suối Lóp... đã rộn ràng bước chân. Sương vẫn còn đọng trên những tầng lá Shan tuyết cổ thụ, nhưng trong ánh mắt người Mông đã sáng lên niềm phấn khởi của ngày trọng lễ. Ở nơi đất lành ấy, cây chè không chỉ là thứ cây quen thuộc mà đã trở thành tri kỷ của núi rừng, trở thành biểu tượng văn hóa được gìn giữ như báu vật.
Quần thể chè Shan tuyết Suối Giàng hiện diện như món quà mà thiên nhiên ban tặng. Mọc tự nhiên trên độ cao 1.300 -1.800m, những gốc chè cổ thụ có tuổi đời từ 100 đến 300 năm sừng sững giữa mây núi. 400 cây chè Shan tuyết đã được công nhận là Cây di sản Việt Nam, một minh chứng cho sức sống mãnh liệt và giá trị văn hóa sâu đậm của vùng đất này. Cây chè Shan nơi đây đặc biệt ở chỗ không cần phân bón, không thuốc bảo vệ thực vật, vẫn khỏe mạnh, trù phú. Tuyết trắng phủ búp tạo nên lớp lông tơ mịn như sương sớm. Khi đun sôi, nước trà mang vị chan chát tinh khiết, đậm đà đến độ tưởng như giữ lại cả hơi núi trong mỗi giọt trà. Chính sự độc đáo ấy khiến Shan tuyết Suối Giàng trở thành một trong những sản phẩm trà ngon bậc nhất cả nước.
Nhưng với người Mông, giá trị của cây chè không chỉ nằm ở hương vị. Cây chè là nguồn sống, là “lộc trời”, là người bạn đã song hành cùng dân bản trong mọi khó khăn. Nhờ cây chè, cuộc sống của người Mông (chiếm tới 98% dân số trong vùng) từng bước đổi thay. Nghề chè đã giúp bao gia đình thoát nghèo, làm giàu, xây nhà mới trên sườn núi, gửi con em đến trường, nuôi hy vọng về tương lai tươi sáng. Sau năm 2013, khi chè Suối Giàng được chứng nhận Nhãn hiệu độc quyền, thương hiệu này càng vươn xa, mở ra hướng phát triển gắn kết giữa văn hóa, kinh tế và du lịch. Những đồi chè cổ thụ trở thành điểm đến yêu thích của du khách trong và ngoài nước. Người Mông quảng bá văn hóa của mình qua từng chén trà, qua điệu khèn, qua câu chuyện về những gốc chè tổ như những pho sử thi sống.
Khúc ngợi ca của lòng biết ơn
Khoảnh khắc đoàn rước lễ bắt đầu xuất phát từ thôn Pang Cáng, tiếng khèn dặt dìu vang lên như gọi mời tổ tiên trở về chứng giám. Đi sau các mâm lễ là thầy cúng, một người am hiểu phong tục tập quán; cùng các vị lãnh đạo địa phương, đại biểu và đông đảo người dân. Mỗi người bước đi trong sự trang nghiêm, mắt hướng về phía tán chè tổ như đang tìm lại cội nguồn. Lễ vật dâng lên cúng cây chè tổ là những sản vật tinh túy nhất của núi rừng, bao gồm: Cơm nếp, rượu, gà, bánh giầy, hoa, trái cây, chè, giấy vàng, giấy đỏ, hương. Tất cả đều do chính tay dân bản nuôi trồng, như lời khẳng định về sự gắn bó giữa con người với đất đai, với cây chè, nguồn sống chủ đạo của họ.
Đoàn rước lễ tiến đến khu vực cây chè tổ, nơi có gốc chè cổ thụ to lớn, rêu phong, như một “lão nhân” chứng kiến bao đổi thay của Suối Giàng. Từng mâm lễ được đặt vào vị trí đã chuẩn bị, trong đó, mâm lễ chính của UBND xã được đặt vào vị trí trang trọng nhất, thể hiện sự tôn kính của cả cộng đồng và chính quyền địa phương đối với cây chè tổ. Khi làn hương trầm bắt đầu tỏa khói, già làng cất lời khấn trong tiếng gió đại ngàn. Lời khấn ấy trang nghiêm mà gần gũi, thấm đượm niềm tri ân: “Cầu thần trời, thần đất, thần chè phù hộ, che chở cho vạn vật. Cầu cho mưa thuận gió hòa, người dân mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi. Cầu cho bản làng, quê hương, đất nước thái bình, thịnh vượng”.
Lễ vật dâng lên cúng cây chè tổ là những sản vật tinh túy nhất của núi rừng, do chính tay bà con nuôi trồng. Ảnh: Việt Bắc
Trong giây phút ấy, đất trời và con người như hòa làm một. Lời cúng không chỉ hướng về thần linh, mà còn nhắc nhớ cộng đồng về trách nhiệm gìn giữ rừng chè cổ thụ, thứ tài sản vô giá mà cha ông đã truyền lại. Người Mông xem cây chè tổ là biểu tượng của sự trường tồn. Bởi lẽ, chính cây chè đã tạo nên bản sắc, nuôi sống bao thế hệ, giúp họ thoát nghèo và mở lối đi lên cho du lịch, kinh tế địa phương. Lời cúng vì thế không đơn thuần là lời nguyện cầu, mà là sự khẳng định về niềm tự hào, về ý thức cộng đồng trong việc bảo tồn di sản thiên nhiên và văn hóa. Anh Thào A Mua, thôn Pang Cáng, chia sẻ trong niềm tự hào: “Nhờ có cây chè mà người dân chúng tôi đã vươn lên thoát nghèo. Du lịch phát triển, khách về đông, bà con càng yêu cây chè hơn. Lễ cúng cây chè tổ không chỉ là nghi thức, mà còn là dịp để chúng tôi nhắc nhau giữ rừng, giữ bản”.
Giữ linh hồn Suối Giàng
Lễ cúng cây chè tổ không chỉ là một nghi lễ mang yếu tố tâm linh, mà còn phản ánh triết lý sống của người Mông, đó là sự biết ơn thiên nhiên, biết gìn giữ những gì mình có và tôn trọng cội nguồn. Trong bối cảnh du lịch phát triển mạnh mẽ, nghi lễ này càng có ý nghĩa như “kim chỉ nam” giữ vẻ đẹp nguyên sơ của Suối Giàng trước những thay đổi của thời đại.
Từ lễ cúng cây chè tổ, người Mông đã tạo dựng được thương hiệu văn hóa gắn liền với cây chè. Du khách đến Suối Giàng không chỉ thưởng trà, mà còn được hòa mình vào không gian lễ hội, được nghe tiếng khèn gọi bạn tình, được tự tay hái những búp chè phủ tuyết, được nghe già làng kể chuyện về những gốc chè tổ đã mấy trăm năm tuổi. Chính sự kết hợp giữa văn hóa, du lịch và kinh tế đã giúp Suối Giàng khẳng định vị thế của mình trên bản đồ chè Việt Nam. Những phiên chợ chè, những gian hàng đặc sản, những tour du lịch trải nghiệm mùa hái chè... đang lan tỏa giá trị văn hóa của người Mông ra khắp mọi miền.
Nhưng quan trọng hơn hết, lễ cúng cây chè tổ trở thành “nhịp cầu” nối kết cộng đồng. Người già truyền lại phong tục cho lớp trẻ; lớp trẻ thêm ý thức bảo vệ rừng chè, giữ gìn bản sắc văn hóa. Trong nhịp sống hôm nay, khi nhiều giá trị truyền thống đứng trước nguy cơ mai một, việc gìn giữ nghi lễ này càng trở nên đáng quý. Cây chè Shan tuyết, vì thế, không chỉ là cây kinh tế, mà còn là “trái tim văn hóa” của Suối Giàng. Mỗi năm, khi lễ cúng cây chè tổ diễn ra, cả bản lại cùng hướng về cội nguồn; tiếng khèn hòa cùng tiếng gió, lời khấn vang lên dưới tán chè nghìn tuổi, tất cả như khẳng định rằng, văn hóa nơi này vẫn đang tiếp tục chảy, tiếp tục truyền đời.
Việt Bắc