Bảo vệ môi trường là một hình thức đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế. Ảnh: Hoàng Anh
Vừa qua, Đoàn giám sát về kết quả chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường 2020 có hiệu lực" có báo cáo gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Báo cáo ghi nhận, việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã đạt được nhiều kết quả tích cực sau khi Luật Bảo vệ môi trường 2020 có hiệu lực, có thể kể đến như tỷ lệ thu gom, tái chế rác thải sinh hoạt đảm bảo tiêu chuẩn, tỷ lệ che phủ rừng, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn… đều vượt chỉ tiêu đặt ra đến năm 2025.
Tuy nhiên, tồn tại không ít những bất cập, đặc biệt khi diễn biến ô nhiễm môi trường vẫn phức tạp, nghiêm trọng. Điển hình, các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM đang chịu đựng ô nhiễm không khí ở mức độ cao hay một số đoạn sông vẫn đang ô nhiễm nặng nề.
Ngoài ra, hạ tầng thu gom, tái chế rác thải, dù đã có công cụ chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) nhưng vẫn còn hạn chế. Việc thực hiện các biện pháp xử lý khẩn cấp ô nhiễm môi trường vẫn chưa được thực hiện kịp thời.
Đoàn giám sát chỉ ra, một số bộ, ngành, địa phương chậm trễ ban hành quy định liên quan và chưa bố trí thỏa đáng nguồn lực xử lý các vấn đề môi trường thuộc phạm vi quản lý. Do đó, cần thiết phải có những giải pháp mạnh tay hơn để giải quyết vấn đề môi trường trong thời gian tới.
Bảo vệ môi trường bằng công cụ kinh tế
Đoàn giám sát nhấn mạnh yêu cầu tiên quyết của bảo vệ môi trường là loại bỏ hoàn toàn quan điểm “bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”. Trên thực tế, bảo vệ môi trường có thể coi như một hình thức đầu tư, đem lại lợi ích cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và các bên liên quan nếu triển khai bài bản và có hiệu quả.
Một trong những giải pháp quan trọng được Đoàn giám sát nhấn mạnh với Ủy ban thường vụ Quốc hội là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn thông qua cơ chế, chính sách khuyến khích.
Trước đó, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 của Chính phủ cũng đã nhấn mạnh quan điểm “ưu tiên thực hiện kinh tế tuần hoàn để tạo động lực tăng trưởng mới”.
Kinh tế tuần hoàn giúp doanh nghiệp giảm tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng, đưa phế thải, phụ phẩm vào sản xuất tạo giá trị, qua đó đem lại lợi nhuận bền vững cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, tín chỉ carbon cũng là một nguồn lợi cho doanh nghiệp, nhà đầu tư trong công tác bảo vệ môi trường. Đoàn giám sát kiến nghị việc đa dạng hóa nguồn cung tín chỉ carbon trong và ngoài nước, bao gồm không chỉ các dự án rừng mà còn những dự án về xử lý chất thải, canh tác nông nghiệp bền vững, năng lượng tái tạo, công nghiệp xanh.
Đảm bảo nguồn lực cho việc thực hiện các giải pháp, Đoàn giám sát đề xuất thúc đẩy các công cụ tài chính như tín dụng xanh, trái phiếu xanh để tạo nguồn lực cho doanh nghiệp đầu tư bảo vệ môi trường. Trong đó, chú trọng hỗ trợ cho các dự án xanh và đáp ứng tiêu chuẩn ESG phù hợp với nhu cầu thực tế của từng địa phương.
Việc đưa các công cụ kinh tế vào bảo vệ môi trường mang ý nghĩa quan trọng về nguồn lực, khi những người hưởng lợi từ môi trường sẽ có nghĩa vụ tài chính và những người gây ô nhiễm phải trả tiền để xử lý ô nhiễm môi trường.
Qua đó, nguồn lực sẽ được huy động theo cơ chế thị trường, thay vì chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước hay ý thức riêng của một số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân.
Đoàn giám sát đề xuất cần rà soát, đánh giá, cập nhật, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến bảo vệ môi trường trong trường hợp cần thiết, qua đó “mở rộng và kiến tạo không gian phát triển mới”.
Như vậy, bảo vệ môi trường sẽ đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số, mở ra lĩnh vực, cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp, thay vì một nghĩa vụ “làm cho có”, tiêu tốn tiền của nhưng không đem lại hiệu quả.
Hoàng Đông