Chủ tịch xã được cấp sổ đỏ
Theo Nghị định 151/2025 về phân cấp, phân quyền lĩnh vực đất đai có hiệu lực từ ngày 1/7, chủ tịch UBND cấp xã sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (sổ đỏ) lần đầu cho người dân. Đồng thời, cấp xã được cấp sổ đỏ theo phương án góp quyền sử dụng đất, điều chỉnh đất đai được phê duyệt. Nhiệm vụ này trước do cấp tỉnh và huyện đảm nhiệm.
Các trường hợp cấp sổ đỏ thuộc thẩm quyền UBND cấp tỉnh sẽ giao về xã, phường, đặc khu gồm: Cấp sổ đỏ cho tổ chức trong nước như cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng, đơn vị vũ trang, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập; tổ chức tôn giáo; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, hàng loạt thẩm quyền khác được chuyển giao từ cấp huyện về chủ tịch UBND cấp xã, như: Chấp thuận phương án sử dụng đất nông nghiệp của tổ chức kinh tế; phê duyệt phương án sử dụng đất lúa của cá nhân; thu hồi đất; phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phê duyệt phương án cưỡng chế và kinh phí cho hoạt động cưỡng chế; quyết định giá đất cụ thể; quyết định giá bán nhà ở tái định cư trong địa bàn.
Chủ tịch UBND cấp xã được thành lập Hội đồng thẩm định giá đất cũng như quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất với cá nhân, trước đây thuộc thẩm quyền cấp tỉnh.
Quy định mới về nộp thuế trên sàn thương mại điện tử
Nghị định số 117/2025/NĐ-CP quy định quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số của hộ, cá nhân có hiệu lực từ hôm nay 1/7.
Theo đó, tổ chức quản lý nền tảng thương mại điện tử trong và ngoài nước – bao gồm cả chủ sở hữu trực tiếp hoặc đơn vị được ủy quyền – sẽ có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay cho người bán là hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh hoạt động trên sàn thương mại điện tử.
Người bán sẽ gồm cá nhân cư trú ở trong nước và nước ngoài.
Các khoản thuế trên sẽ được khấu trừ ngay khi đơn hàng được xác nhận thành công và người mua chấp nhận thanh toán. Số thuế được xác định theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu của mỗi giao dịch được hoàn tất.
Doanh nghiệp phải đăng ký tài khoản định danh điện tử
Từ ngày 01/7/2025, các tài khoản trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, hệ thống thủ tục hành chính các cấp sẽ hết hiệu lực.
Từ ngày 01/7/2025, doanh nghiệp bắt đầu sử dụng tài khoản định danh điện tử trên VNeID để truy cập Cổng dịch vụ công quốc gia, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính các cấp để giải quyết các thủ tục hành chính theo quy định.
Luật Thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành
Từ ngày 1/7/2025, Luật Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) sửa đổi chính thức có hiệu lực, đánh dấu bước tiến quan trọng trong cải cách chính sách thuế.
Về đối tượng không chịu thuế GTGT, Luật Thuế GTGT 202 đã bỏ một số loại hàng hóa không chịu thuế như phân bón, máy móc chuyên dùng cho nông nghiệp, tàu đánh bắt xa bờ, dịch vụ chứng khoán; đồng thời mở rộng đối tượng chịu thuế, chuyển một số sản phẩm không chịu thuế sang chịu thuế 5% hoặc 10%.
Thuế suất 0% được mở rộng áp dụng cho vận tải quốc tế, công trình xây dựng, lắp đặt ở nước ngoài, hàng hóa bán tại khu vực cách ly cho người xuất cảnh, dịch vụ xuất khẩu như cho thuê phương tiện vận tải ngoài lãnh thổ Việt Nam, dịch vụ hàng không, hàng hải phục vụ vận tải quốc tế.
Đặc biệt, từ 1/7/2025, mua hàng hóa, dịch vụ dưới 20 triệu đồng phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, trừ một số trường hợp đặc thù.
Luật Địa chất và khoáng sản 2024 có hiệu lực thi hành
Luật Địa chất và khoáng sản số 54/2024/QH15 được Quốc hội Khóa XV, Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2024, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.
Luật đã bổ sung một số quy định nhằm tăng cường phân cấp cho chính quyền địa phương đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao nǎng lực thực thi của cơ quan cấp dưới kèm theo việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, nhất là ở cấp trực tiếp thực hiện.
Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 đã bổ sung và làm rõ các hoạt động thu hồi khoáng sản, khai thác khoáng sản nhóm IV. Luật đã quy định rõ khoáng sản nhóm IV bao gồm: khoáng sản chỉ phù hợp với mục đích làm vật liệu san lấp, đắp nền móng công trình, xây dựng công trình thủy lợi, phòng, chống thiên tai, gồm: đất sét, đất đồi, đất có tên gọi khác; đất lẫn đá, cát, cuội hoặc sỏi; cát (trừ cát, sỏi lòng sông, lòng hồ và khu vực biển).
Luật đã quy định rõ, hoạt động thăm dò, khai thác cát, sỏi lòng sông, lòng hồ và khu vực biển phải tuân thủ quy định đối với khoáng sản nhóm II hoặc nhóm III bảo kiểm soát và giám sát bằng các phương tiện, thiết bị công nghệ hiện đại để bảo đảm kiểm soát được sự biến động trữ lượng khoáng sản; nguy cơ mất an toàn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; nguy cơ sạt lở, mất ổn định lòng sông, bờ sông, bãi sông, bờ biển.
5 nhóm đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Theo Nghị định số 158/2025/NĐ-CP ngày 25/6/2025 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, có 5 nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc gồm:
Thứ nhất, người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thực hiện theo quy định tại các điểm a, b, c, g, h, i, k, l, m và n khoản 1 và khoản 2 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội.
Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, i, k, l khoản 1 và khoản 2 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội được cử đi học, thực tập, công tác trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương ở trong nước thì thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Thứ hai, chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh quy định tại điểm m khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Thứ ba, đối tượng quy định tại khoản 2 nêu trên và điểm n khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội đồng thời thuộc nhiều đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, đối tượng hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại điểm a khoản 7 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội.
Thứ năm, đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng tính theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định này thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất; người lao động làm việc theo hợp đồng thử việc theo quy định của pháp luật lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Minh Thành