Bình minh ở Angkor Watt.
Chiếc quạt tự chế trên xe bật hết công suất, nhưng không ích gì, vì bên ngoài là bầu không khí nóng như cô đặc lại. Gió lúc này chỉ làm bạn cảm thấy ngột ngạt và khó thở hơn. Chúng tôi đến Angkor Watt vào lúc… bốn giờ sáng, từ trung tâm Siem Reap, để chờ ngắm bình minh. Và đây là cuối tháng 3, chứ không phải giữa hè. Nhưng cái nóng kiểu này đã là thứ “đặc sản” mà bạn phải làm quen khi đặt chân đến Campuchia.
Hôm đó là ngày xuân phân, nên phải có đến mấy trăm người cũng như tôi, đã sẵn sàng giương máy ảnh, đứng chờ mặt trời mọc: vào các ngày xuân phân và thu phân, mặt trời sẽ mọc thẳng hàng với đỉnh tháp trung tâm của ngôi đền. Gió bắt đầu lặng, trời vẫn nóng và mồ hôi lấm tấm trên trán tôi, nhưng khi mặt trời bắt đầu nhú lên và dường như nhân đôi nhờ bóng phản chiếu dưới đáy hào nước, nó tạo ra một cảnh tượng huyền ảo khiến cảm xúc người chứng kiến như vỡ òa.
Phấn khích sau khoảnh khắc ngắm mặt trời mọc thành công, tôi quyết định sẽ đi bộ qua những khu đền chính và đến quãng gần trưa thì nhận ra rằng đây không phải quyết định khôn ngoan. Trời quá oi bức, trong ánh nắng gay gắt như thiêu đốt, uống bao nhiêu nước cũng không hết khát.
Tại đây, khoảng đầu thế kỷ thứ 12, dưới triều đại vua Suryavarman II, ước tính khoảng ba trăm nghìn người và sáu nghìn con voi đã vận chuyển năm triệu tấn đá sa thạch từ núi Kulen, cách công trường khoảng vài chục dặm. Họ đã làm bằng cách nào? Tương truyền rằng người Khmer đã đào một hệ thống kênh dài gần 34 km, kết nối với sông Siem Reap và hồ Tonle Sap, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển đá bằng đường thủy.
Bạn sẽ phải kinh ngạc khi sờ tay vào bức tường làm nên ngôi đền: các phiến đá sa thạch xếp chồng lên nhau, kết dính lại mà không cần vôi vữa hay một chất keo đặc biệt nào. Người Khmer cổ đã sử dụng kỹ thuật chạm khắc chính xác để các khối đá khít sát nhau, tạo thành các tường, trụ, mái vòm và tháp vững chắc nhờ trọng lượng và sự ma sát giữa các khối đá. Một sự sắp đặt tinh xảo và tài tình. Một công trình như được thánh thần chỉ lối.
Không ít quốc gia có nền du lịch mạnh mẽ đến nỗi họ có khả năng khuếch trương những thứ bình thường, như bức tượng đầu sư tử mình cá mà cả triệu người đã check-in ở Singapore, hay tòa tháp đôi Petronas tại Malaysia. Nhưng chúng thiếu trải nghiệm siêu hình như ở những đất nước có chiều sâu văn hóa nổi bật, với những kỳ quan mà qua việc tạo ra chúng, con người đã vượt lên cả số phận ngắn ngủi của chính mình. Như Angkor Watt nói riêng và Campuchia nói chung. Bạn có thể tìm thấy những dấu vết quá khứ và trầm tích văn hóa ở bất kỳ đâu, từ một ngôi chùa giữa Phnôm Pênh hay một quán ăn nhỏ bán bún Nom Banh Chok (một loại bún nấu với nước lèo hầm từ cá lóc và mắm bò hóc) đã trải qua ba đời, trong một con hẻm nhỏ và quy mô chỉ có ba chiếc bàn.
Có hai kiểu du lịch: một là ưu tiên cho tiện nghi, những bức ảnh check-in điểm đến, lên xe xuống ngựa và kết thúc bằng hồ bơi trong resort hoặc bãi biển; và hai, đi qua những tàn tích, bước lên dấu vết thời gian, nơi những câu chuyện như còn in lên lối vào, ngắm nhìn 200 khuôn mặt đá với nụ cười bí ẩn ở Bayon, và đứng bên bộ rễ cây khổng lồ hàng trăm năm nuốt chửng ngôi đền Ta Prohm, hai trong số những khu kiến trúc tiêu biểu của quần thể Angkor.
Ở đoạn kết bộ phim kinh điển Tâm trạng khi yêu, đạo diễn Vương Gia Vệ không biết nên quay gì, đã đưa cả đoàn làm phim đến… Angkor Watt, quay thật nhiều shot hình để kiếm các cảnh minh họa. Ông đã mất phương hướng cho đến khi diễn viên huyền thoại Lương Triều Vỹ, trong vai nhân vật Châu Mộ Văn, ngẫu hứng đứng thì thầm vào khe hở trên bức tường đá sa thạch. Sau này, cái kết đó đã trở thành kinh điển, vì nó mở ra một chiều sâu vô tận cho tác phẩm: cuối cùng thì tình yêu này, và những nhân vật này, đều chẳng là gì khi đứng trước tạo hóa vĩnh cửu, như là những phiến đá sa thạch kia.
Tôi cũng đã lại gần một phiến đá, và bất giác cũng muốn thì thầm. Đối diện với những dấu tích kỳ vĩ ấy, kiếp người nào cũng trở nên nhỏ bé.
PHẠM AN