Đặc biệt, chia sẻ tại Hội thảo “Doanh nghiệp chuyển đổi xanh để giữ vững lợi thế cạnh tranh gia tăng xuất khẩu trong giai đoạn mới” được tổ chức sáng 20/5, các chuyên gia khuyến nghị, tại một số thị trường xuất khẩu trọng điểm các yêu cầu về chứng nhận sản phẩm hữu cơ, sản phẩm có hàm lượng carbon thấp... nếu doanh nghiệp không kịp thích ứng sẽ không thể thâm nhập vào các thị trường này.
Nông nghiệp hữu cơ cho doanh thu tiền tỷ
Là người kiên trì theo đuổi nông nghiệp sạch, ông Nguyễn Thành Trung, Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ Quỳnh Phụ, cho hay, sau hơn 8 năm kiên trì canh tác theo hướng hữu cơ, đến nay ông đã có “quả ngọt” khi một năm thu về hàng tỷ đồng/ha ở trang trại chuối Nam Mỹ.
Được biết, tại vườn chuối của trang trại nhà ông Trung, chuối được trồng với mật độ 4,5 m2/cây và được chăm bón bằng phân hữu cơ. Nước ở sông được đưa về các kênh nhỏ trong vườn để làm nước tưới. Những bẹ chuối già thường ủ nấm bệnh được công nhân bóc tách trước khi bón phân.
Nhờ trồng chuối theo phương pháp hữu cơ, HTX Nông nghiệp hữu cơ Quỳnh Phụ đã xuất khẩu thành công sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước Trung Đông.
Khi chuối còn nhỏ, ông Trung đã trồng một số loại dưa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Khi chuối cao chừng gần 1m thì dưa đã cho thu hoạch. Cách làm này vừa chống rửa trôi được lượng phân bón khi chuối còn nhỏ, đồng thời hạn chế được cỏ dại.
Theo tính toán của ông Trung, nếu sử dụng phân bón vô cơ, 1 ha chi phí hết 18 triệu đồng. Sử dụng phân bón hữu cơ, chi phí tăng lên gần 30 triệu đồng nhưng bù lại khi xuất bán, giá trị mỗi năm ông thu 2 vụ đạt khoảng 2,7 tỷ đồng, vẫn đảm bảo mức lãi cao.
Nhận thấy hiệu quả, ông Trung liên kết và bao tiêu sản phẩm với một số tỉnh lân cận với tổng diện tích lên tới 300 ha. Tại thị trường trong nước, ông xuất bán cho các siêu thị lớn và các nhà hàng. Ngoài ra, ông Trung xuất khẩu chuối tại các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước Trung Đông. Trong tương lai, ông sẽ mở rộng xuất khẩu sang một số thị trường mới tiềm năng.
Tương tự, tại tỉnh Tuyên Quang, nhờ mạnh dạn đầu tư máy móc hiện đại và ứng dụng KHKT trong sản xuất và chăm sóc chè, Hợp tác xã Dịch vụ sản xuất nông nghiệp Sử Anh, xã Mỹ Bằng (Yên Sơn) đã từng bước đưa các sản phẩm chè – loại cây truyền thống của địa phương trở thành những sản phẩm khác biệt.
Giám đốc HTX Nguyễn Công Sử kể: Năm 2017, anh cùng 6 hộ dân thành lập HTX dịch vụ sản xuất nông nghiệp Sử Anh, chuyên trồng, chế biến chè. Sau 7 năm phát triển, HTX đã nâng diện tích sản xuất lên hơn 30 ha chè, tạo việc làm cho trên 30 lao động.
Hiện diện tích chè gần 100 ha, tổng sản lượng chè trung bình đạt 125 tấn nguyên liệu/năm, toàn bộ diện tích được áp dụng theo quy chuẩn VietGAP và liên kết với trên 100 hộ dân tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Hàm Yên và thành phố Tuyên Quang.
Được biết, để tham gia mô hình, các hộ dân đều phải tuân thủ nghiêm nguyên tắc “4 đúng” (đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng thời điểm và đúng phương pháp).
Với sự đồng hành của các cấp chính quyền, HTX được tiếp cận các cơ chế, chính sách ưu đãi, kết nối được với một số doanh nghiệp, siêu thị tiêu thụ sản phẩm.
Trong thời gian tới, HTX Sử Anh tiếp tục đẩy mạnh áp dụng sản xuất theo hướng hữu cơ, chuyển đổi giống chè mới có năng suất, chất lượng như chè Ngọc Thúy, chè Bát Tiên… để tạo ra sản phẩm với chất lượng cao, bảo vệ tốt hơn sức khỏe của người tiêu dùng và hướng tới thị trường xuất khẩu.
Đặc biệt, chia sẻ tại Hội thảo sáng nay, bà Lương Thanh Hạnh, sáng lập và điều hành Hanhsilk, Chủ nhiệm HTX Lụa đũi Nam Cao, Thái Bình đã kể về hành trình “hồi sinh” kỳ diệu làng nghề dệt đũi tưởng chừng đã bị lãng quên sau hơn 10 năm nỗ lực qua quá trình hình thành chuỗi giá trị từ vùng nguyên liệu, sản xuất đến tiêu thụ, xuất khẩu. Theo bà Hạnh, để bảo tồn và phát triển di sản nghề dệt đũi, Hợp tác xã đã định hướng sản xuất xanh, bảo vệ môi trường trong đó áp dụng kỹ thuật nhuộm vải tự nhiên từ cây, quả, củ.
Nhờ đó, các sản phẩm lụa đũi truyền thống đã từng bước được nâng cao giá trị. Hiện Hợp tác xã dệt đũi Nam Cao có gần 300 thành viên với khoảng 500 loại sản phẩm khác nhau cung ứng cho thị trường, trong đó xuất khẩu tại 20 nước trên thế giới như Mỹ, Anh, Italy, Australia, Ấn Độ, Hàn Quốc và nhiều nước Trung Đông khác, doanh thu trên 10 tỷ đồng/năm.
Cả chuyên gia và cả doanh nghiệp đều chung quan điểm rằng, mục tiêu sản xuất-kinh doanh trong bối cảnh hiện nay là vì cộng đồng, vì môi trường theo chặng đường dài và giá trị cũng tăng cao.
Khó khăn nhưng có nhiều tiềm năng
Tuy nhiên, có một thực tế, trong khi các tập đoàn lớn đã có nền tảng và nguồn lực để chuyển đổi, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và các HTX với quy mô nhỏ vẫn còn đối mặt với nhiều rào cản.
HTX Lụa đũi Nam Cao, Thái Bình định hướng sản xuất xanh, bảo vệ môi trường trong đó áp dụng kỹ thuật nhuộm vải tự nhiên từ cây, quả, củ.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh - Phó Tổng Giám đốc SolarBK Group, nhận định: “Tâm lý e ngại chi phí đầu tư ban đầu là một trong những lý do khiến SME chậm triển khai chuyển đổi xanh. Nhưng nếu nhìn dài hạn, đây là khoản đầu tư thiết yếu để doanh nghiệp tồn tại trong bối cảnh thị trường ngày càng ưu tiên sản phẩm, dịch vụ bền vững”.
Nhấn mạnh về tầm quan trọng của chuyển đổi xanh đối với DN kinh doanh, bà Trần Thị Thanh Tâm, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (VCCI), cho rằng, chuyển đổi xanh không chỉ đáp ứng yêu cầu của thị trường, mà còn mang lại nhiều giá trị thiết thực cho doanh nghiệp.
Yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là nâng cao uy tín và hình ảnh thương hiệu, thể hiện trách nhiệm xã hội và môi trường kinh doanh. Tối ưu hóa quy trình sản xuất, tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu, từ đó giảm chi phí vận hành. Cùng với đó tạo cơ hội tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, tài trợ quốc tế và các chương trình hỗ trợ phát triển bền vững.
"Đặc biệt, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là hai quá trình bổ trợ lẫn nhau, ứng dụng công nghệ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, tự động hóa, phân tích dữ liệu, giảm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh”, bà Tâm nói.
Theo nhận định của các chuyên gia, hiện xu hướng người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến chất lượng và giá cả sản phẩm, mà ngày càng chú trọng đến yếu tố môi trường, quy trình sản xuất và nguồn gốc bền vững của sản phẩm. Bên cạnh đó, các thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản đang ngày càng áp dụng các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt hơn với hàng hóa nhập khẩu. Những quy định như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU, hay các yêu cầu về chứng nhận sản phẩm hữu cơ, sản phẩm có hàm lượng carbon thấp... nếu doanh nghiệp, HTX không kịp thích ứng sẽ không thể thâm nhập vào các thị trường này.
Bà Vũ Kim Anh, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp đã bày tỏ tin tưởng rằng, với sự sáng tạo, bản lĩnh và nỗ lực không ngừng, doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể thích ứng, phát triển mạnh mẽ hơn nữa và vươn xa trên thị trường quốc tế.
Hồng Hương