Vừa qua Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã được công bố để lấy ý kiến.
Trong đó, Khoản 1, Điều 6 của Dự thảo có nêu: “Thí điểm cơ chế miễn thị thực và miễn giấy phép lao động trong thời gian 05 năm cho các chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài có trình độ Tiến sĩ làm quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật tại các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và tổ chức khoa học công nghệ công lập”.
Theo các cơ sở giáo dục, chính sách này sẽ giúp giảm bớt thủ tục hành chính, góp phần tạo môi trường học thuật mở, thúc đẩy chuyển giao tri thức, kinh nghiệm, cũng như các phương pháp giảng dạy và nghiên cứu hiện đại từ các nền giáo dục phát triển trên thế giới.
Sở hữu đội ngũ giảng viên người nước ngoài giúp mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng chia sẻ, việc thu hút giảng viên, chuyên gia, nhà khoa học quốc tế về giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam là yếu tố then chốt nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu khoa học, góp phần tạo vị thế của đơn vị cũng như có thêm nhiều cơ hội để tham gia vào các dự án nghiên cứu đa quốc gia.
Đối với sinh viên, người học sẽ có cơ hội tiếp cận các nền tri thức mới, được đào tạo với nhiều phương thức khác nhau. Từ đó không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo của Việt Nam mà còn nâng cao năng lực nguồn lao động khi có đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu quốc tế.
Tuy nhiên, quá trình tuyển dụng và giữ chân giảng viên nước ngoài đang đối diện với nhiều khó khăn như thủ tục hành chính phức tạp và chính sách đãi ngộ chưa đủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, cơ sở đào tạo phải lập đề án vị trí việc làm, giải trình lý do không sử dụng nhân lực trong nước và chờ phê duyệt chỉ tiêu lao động nước ngoài.
Ngoài ra, rào cản ngôn ngữ, khác biệt văn hóa cùng việc thiếu cơ chế rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm của giảng viên nước ngoài cũng là những yếu tố khó khăn khi tuyển dụng.
Ảnh minh họa: Ufm.edu.vn
Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Tân Trào chia sẻ, bên cạnh thủ tục hành chính, thu hút giảng viên nước ngoài yêu cầu các trường phải chi trả mức lương, đãi ngộ hấp dẫn để cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thực tế, chi phí để mời các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế về Việt Nam giảng dạy gấp rất nhiều lần so với chi phí của chuyên gia trong nước. Với các trường tư có tiềm lực tài chính tốt thì chi phí này không phải là vấn đề đáng lo ngại, tuy nhiên với các trường đại học ở địa phương thì đây vẫn là một bài toán khó bởi nguồn ngân sách còn tùy thuộc vào tình hình của địa phương.
Bên cạnh đó, hiện vẫn còn một số hạn chế khác có thể được nêu ra như rào cản về văn hóa và ngôn ngữ, rào cản về chiến lược, phong cách làm việc,…
Ngoài mức lương thưởng, cần môi trường học thuật năng động, đáp ứng cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và nghiên cứu đạt tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời bảo đảm các điều kiện hỗ trợ về bảo hiểm y tế, chi phí đi lại, việc làm cho người thân, trường học cho con cái của họ để không chỉ thu hút mà còn “giữ chân” nhân tài.
“Không thể phủ nhận rằng, việc có đội ngũ giảng viên người nước ngoài sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học. Trước hết, sở hữu đội ngũ này góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, thúc đẩy hội nhập quốc tế.
Các chuyên gia nước ngoài không chỉ trực tiếp tham gia giảng dạy và nghiên cứu mà còn đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên trong nước. Họ cũng là cầu nối để các cơ sở giáo dục Việt Nam tăng cường hợp tác chuyển giao và nhận chuyển giao công nghệ, phương pháp và kỹ năng mới từ các cơ sở giáo dục chất lượng cao, uy tín ở nước ngoài.
Ngoài ra, sự hiện diện của giảng viên, chuyên gia quốc tế sẽ góp phần tạo ra môi trường học tập đa văn hóa, giúp sinh viên làm quen với các phong cách làm việc, tư duy và ngôn ngữ toàn cầu”, thầy Tuấn chia sẻ.
Cần thí điểm ở những cơ sở giáo dục đào tạo trọng điểm
Từ thực tiễn, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh, việc thí điểm cơ chế miễn thị thực và miễn giấy phép lao động trong thời gian 05 năm cho các chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài có trình độ tiến sĩ làm quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật tại các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và tổ chức khoa học công nghệ công lập sẽ tạo lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ cho các trường đại học Việt Nam trong thu hút nhân tài quốc tế.
Tuy nhiên, nên Nghị quyết nên bỏ cụm từ “công lập” để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong chính sách giữa các tổ chức khoa học, không phân biệt loại hình công lập hay tư thục.
Theo thầy Quỳnh, khi được miễn thị thực và miễn giấy phép lao động sẽ tháo gỡ các khó khăn về mặt hành chính, các trường có thể chủ động mời chuyên gia nhanh hơn, giảm chi phí và thời gian thủ tục rườm rà, tạo hình ảnh Việt Nam là “điểm đến thân thiện với giới học thuật quốc tế”, tăng sức cạnh tranh với các quốc gia khác.
Đồng thời, chính sách này còn giúp chuyên gia người nước ngoài yên tâm ở lại cống hiến lâu dài, hướng dẫn nghiên cứu sinh, xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh và chuyển giao công nghệ, từ đó hình thành hạ tầng học thuật quốc tế ổn định.
Việc có nhiều giảng viên quốc tế cũng giúp các trường cải thiện tỷ lệ hợp tác nghiên cứu, tăng công bố quốc tế, nâng hạng trên bảng xếp hạng, góp phần thực hiện mục tiêu đưa ít nhất 5 đại học Việt Nam vào top 500 thế giới theo Quyết định số 1705/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Bên cạnh đó, sự hiện diện của chuyên gia nước ngoài còn là tín hiệu chất lượng giúp thu hút sinh viên trong và ngoài nước, tăng doanh thu, thương hiệu và tạo động lực cho các quỹ đầu tư, trường quốc tế hợp tác lâu dài, đưa Việt Nam trở thành điểm đến giáo dục của Đông Nam Á.
Đặc biệt, trong các lĩnh vực công nghệ lõi như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng mới hay sinh học, chuyên gia quốc tế sẽ mang theo dự án, công nghệ, dữ liệu và mạng lưới hợp tác, giúp các trường hình thành phòng thí nghiệm chung, đồng phát triển sáng chế và sản phẩm thương mại hóa.
Cũng theo thầy Quỳnh, việc thí điểm miễn giấy phép lao động và thị thực có thể thực hiện ở các cơ sở giáo dục đáp ứng 3 tiêu chí: Có năng lực hội nhập quốc tế; Có ngành đào tạo mũi nhọn trong công nghệ lõi hoặc lĩnh vực chiến lược; Có khả năng tạo hiệu ứng lan tỏa, tác động trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Ngoài những yếu tố trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành hướng dẫn về quản lý và giám sát chuyên gia, thiết lập hệ thống đăng ký trực tuyến quốc gia gắn với cơ sở mời và lĩnh vực nghiên cứu, đồng thời thực hiện đánh giá độc lập hằng năm về đóng góp của chuyên gia trong nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ.
“Nếu được triển khai đúng lộ trình, chính sách này sẽ tạo môi trường học thuật mở, là chìa khóa mở cửa quốc tế hóa giáo dục đại học Việt Nam, giúp thu hút nhân tài toàn cầu, nâng hạng học thuật và đưa Việt Nam trở thành trung tâm giáo dục và nghiên cứu của khu vực”, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng khẳng định.
Còn theo Giáo sư, Tiến sĩ Hà Thanh Toàn - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ, hiện nay chúng ta mới chỉ chủ yếu thu hút các giáo sư, chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài trở về với mong muốn đóng góp cho quê hương, còn việc thu hút các chuyên gia người nước ngoài vẫn còn hạn chế do vướng mắc về thủ tục hành chính rườm rà cũng như hiện nay vẫn chưa có quy định công nhận tương đương đối với giáo sư, phó giáo sư ở nước ngoài về Việt Nam công tác.
Từ những vướng mắc đó, Giáo sư, Tiến sĩ Hà Thanh Toàn cho rằng, việc thí điểm cơ chế miễn thị thực và miễn giấy phép lao động trong thời gian 05 năm cho các chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài sẽ giúp quy trình mời chuyên gia, nhà khoa học trở nên nhanh gọn và linh hoạt hơn. Tạo hành lang thuận lợi để thúc đẩy vai trò then chốt của các cơ sở giáo dục đại học trong quá trình hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một cơ sở dữ liệu chung về bằng cấp và chứng chỉ của các quốc gia để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở giáo dục trong việc đối chiếu và so sánh.
Đặc biệt, cần có các gói chính sách hỗ trợ đối với chuyên gia, nhà khoa học có gia đình, ví dụ hỗ trợ học phí cho con em khi học tại trường; đảm bảo điều kiện làm việc ổn định. Đồng thời, tạo điều kiện để giáo viên người nước ngoài được đào tạo và phát triển chuyên môn qua việc tổ chức các khóa đào tạo định kỳ, hội thảo giảng dạy hoặc tài trợ tham gia các chương trình đào tạo quốc tế; có lộ trình phát triển nghề nghiệp rõ ràng để giáo viên gắn bó lâu dài.
Đồng quan điểm, theo Hiệu trưởng Trường Đại học Tân Trào, đây sẽ là bước "đơn giản hóa" thủ tục hành chính, giúp các trường đại học tối ưu hóa thời gian và tiết kiệm chi phí, nguồn lực và vẫn đảm bảo đúng quy định, không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Ngoài ra, nên triển khai thí điểm tại trường đại học trọng điểm hoặc đã được quy hoạch là cơ sở giáo dục đại học trọng điểm quốc gia về kỹ thuật và công nghệ được giao dẫn dắt mạng lưới trung tâm đào tạo xuất sắc và tài năng, trường cao đẳng thực hiện chức năng trung tâm vùng, trung tâm quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao.
Tuy nhiên, theo Hiệu trưởng Trường Đại học Tân Trào, để chính sách này thực sự phát huy hiệu quả, cần hội tụ nhiều điều kiện đi kèm. Trước hết, rất cần có một cơ chế đột phá mang tính hệ thống về chính sách hỗ trợ tài chính, bao gồm hỗ trợ chi phí làm thủ tục, di chuyển và sinh hoạt, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở giáo dục trong việc tuyển dụng và duy trì đội ngũ giảng viên quốc tế.
Các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam cần hiểu rõ về văn hóa và phong cách làm việc của các quốc gia để không ngừng xây dựng và tạo ra văn hóa học tập, làm việc hiện đại, văn minh và gắn kết. Giảng viên quốc tế không chỉ đến giảng dạy vì mục tiêu thu nhập, mà họ còn tìm kiếm một môi trường học thuật hấp dẫn, có hoạt động nghiên cứu, đóng góp cộng đồng và khả năng thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế.
Đặc biệt, đối với chuyên gia, nhà khoa học lĩnh vực công nghệ kỹ thuật về làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, cần chú trọng xây dựng cơ sở vật chất, phòng lab hiện đại để họ phát huy được khả năng nghiên cứu, dẫn dắt nghiên cứu tốt nhất cho người học.
Thu Trang