Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Trong đó, một trong những nhiệm vụ, giải pháp đáng chú ý được nêu là:
"Mở rộng các chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi cho người học, không để học sinh, sinh viên nào bỏ học vì điều kiện tài chính. Xây dựng và triển khai Đề án đào tạo tài năng, ưu tiên các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ. Thành lập Quỹ học bổng quốc gia và phát huy hiệu quả các quỹ khuyến tài, khuyến học khác từ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác để khuyến khích học tập và phát triển sự nghiệp giáo dục".
Bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, giảm bớt gánh nặng kinh tế cho người học
Theo đánh giá của cơ sở giáo dục, nhiệm vụ giải pháp nêu trên mang lại nhiều giá trị thiết thực, đặc biệt trong việc mở rộng cơ hội học tập đến mọi đối tượng người học, để học sinh, sinh viên đều có thể nhận được sự hỗ trợ cần thiết, yên tâm học tập, đồng thời khuyến khích phát triển tài năng.
Chia sẻ về vấn đề này, Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Hiếu - giảng viên Khoa Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội cho biết: Nghị quyết 71 đặt ra chủ trương mở rộng hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi cho người học, không để học sinh, sinh viên nào phải bỏ học vì điều kiện tài chính. Với nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nêu trên, đây được xem là một bước chuyển mang tính đột phá, cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với giáo dục và đào tạo.
Cụ thể, hiện nay, tại Điều 84 Luật Giáo dục 2019 (số 43/2019/QH14), Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về lãi suất, điều kiện và thời hạn vay tiền để người học có điều kiện học tập; khuyến khích xã hội hóa hoạt động tín dụng giáo dục. Theo Quyết định 157/2007/QĐ-TTgdo Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 27/09/2007, chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên được áp dụng để hỗ trợ cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh hoạt của học sinh, sinh viên trong thời gian theo học tại trường bao gồm: tiền học phí; chi phí mua sắm sách vở, phương tiện học tập, chi phí ăn, ở, đi lại.
Trong khi đó, tại Điều 2 Quyết định 157/2007/QĐ-TTg và khoản 1 Điều 1 Quyết định 05/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 23/03/2022, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn theo học tại các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp hoặc các cơ sở đào tạo nghề được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam là đối tượng được hỗ trợ vay vốn sinh viên. Đó là sinh viên mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại không có khả năng lao động; sinh viên là thành viên của hộ gia đình thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình theo chuẩn quy định của pháp luật; sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về tài chính do tai nạn, bệnh tật, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh trong thời gian theo học có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.
Ảnh minh họa: Đào Hiền.
Theo khoản 2 Điều 1 Quyết định 05/2022/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 157 nêu, mức tiền hỗ trợ vay vốn sinh viên tối đa là 4.000.000 đồng/tháng/sinh viên. Mức lãi suất hỗ trợ vay vốn sinh viên được quy định tại Điều 7 Quyết định 157/2007/QĐ-TTg và khoản 2 Điều 1 Quyết định 853/2011/QĐ-TTg như sau: Lãi suất cho vay ưu đãi đối với sinh viên là 0,65%/tháng; Lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay.
Đặc biệt, Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI có nội dung: “Hoàn thiện chính sách hỗ trợ người học từ ngân sách Nhà nước thông qua cấp học bổng hoặc hỗ trợ miễn giảm học phí đối với các ngành, nghề Nhà nước cần ưu tiên phát triển ở các trình độ đào tạo, mở rộng đối tượng và nâng mức ưu đãi cho vay tín dụng”.
Mặt khác, ngày 28/8/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc ký Quyết định 29/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, học viên thạc sĩ, nghiên cứu sinh học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM). Theo đó, mức vốn cho vay tối đa đối với 1 người học để hỗ trợ trang trải tiền học phí, tiền sinh hoạt phí và chi phí học tập khác trong thời gian còn lại của khóa học, bao gồm: toàn bộ tiền học phí phải đóng của người học (sau khi trừ các khoản học bổng và hỗ trợ tài chính khác của nhà trường nếu có) theo xác nhận của nhà trường; tiền sinh hoạt phí và chi phí học tập khác tối đa là 5 triệu đồng/tháng. Lãi suất cho vay là 4,8%/năm; lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay.
Cùng với chủ trương của Nghị quyết 71, có thể thấy, việc tạo điều kiện để sinh viên tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi không chỉ là sự hỗ trợ về vật chất, mà còn là động lực tinh thần to lớn, giúp các em vững bước trên con đường tiếp cận tri thức. Bởi thực tế hiện nay, đối với nhiều gia đình, việc trang trải học phí và chi phí sinh hoạt vẫn là gánh nặng trở thành rào cản khiến các em phải cân nhắc việc học tập.
Chính vì vậy, mở rộng chính sách hỗ trợ tài chính là định hướng rất phù hợp và thiết thực, góp phần bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, giảm bớt gánh nặng kinh tế cho các gia đình, để bất cứ sinh viên nào có mong muốn học tập đều có cơ hội thực hiện. Khi được định hướng triển khai đồng bộ, chủ trương này không chỉ mở rộng cánh cửa giáo dục cho nhiều đối tượng người học, mà còn góp phần khuyến khích, phát huy tài năng, xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.
Hướng tới cơ chế quỹ học bổng độc lập, nguồn lực phân bổ trọng tâm, trọng điểm
Thể hiện tinh thần nhân văn và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với ngành giáo dục và thế hệ tương lai, Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là một bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy bình đẳng giáo dục, đảm bảo quyền học tập cho mọi người học, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước. Đồng tình với ý kiến trên, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quý Thanh - Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, điều này mở ra định hướng cụ thể, quan trọng và rõ ràng, đồng thời chủ trương thành lập Quỹ học bổng quốc gia là một bước tiến về tư duy.
Theo quy định còn hiện hành, điểm b khoản 4 Điều 8 Nghị định 84/2020/NĐ-CP về nguồn hình thành học bổng khuyến khích học tập nêu: “Đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học, học bổng khuyến khích học tập được bố trí tối thiểu bằng 8% nguồn thu học phí đối với trường công lập và tối thiểu 2% nguồn thu học phí đối với trường tư thục”. Bên cạnh việc các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học hình thành học bổng khuyến khích học tập cân đối từ nguồn thu học phí, việc thành lập Quỹ học bổng quốc gia và phát huy hiệu quả các quỹ khuyến tài, khuyến học khác từ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác là một cơ chế độc lập, minh bạch, tách bạch hoàn toàn khỏi học phí.
Ảnh minh họa: Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ở góc độ rộng hơn, vấn đề tài chính như “huyết mạch” quyết định "sức khỏe" của toàn hệ thống giáo dục đại học. Tự chủ đại học cần được hiểu một cách đúng nghĩa, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ về tài chính, không lấy cơ chế tài chính để phán định quyền tự chủ của các trường. Nếu làm rõ điều này, các trường có thể giảm bớt áp lực tăng học phí, đồng thời có điều kiện đầu tư chiến lược dài hạn. Tài chính cho giáo dục đại học cũng mang tính bền vững hơn khi quỹ học bổng được vận hành hoạt động độc lập và các nguồn lực được phân bổ có trọng điểm, tránh dàn trải.
Đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết của một hệ thống giáo dục đại học phải phân tầng minh bạch, ít nhưng mạnh, đủ khả năng đào tạo ra đội ngũ nhân lực tinh hoa có sức cạnh tranh toàn cầu. Hiện nay, tổng quy mô đào tạo trình độ đại học năm 2024 ở nước ta đạt 2,3 triệu sinh viên, tăng 37% so với năm 2019 và đạt 230 sinh viên trên một vạn dân [1]. Trong khi đó, theo Báo cáo số 719/BC-BGDĐT năm 2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chi ngân sách cho giáo dục đại học năm 2013 là 19.271 tỷ đồng, tương đương với 0,43% GDP và 9,3% tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo.
Đến năm 2022 giảm xuống còn hơn 10.000 tỷ đồng, chiếm 0,11% GDP và 3,4% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo [2]. Theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quý Thanh, bình quân mỗi sinh viên nhận được khoảng 13-14 triệu đồng/năm, con số này thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực. Mức đầu tư bình quân ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới khoảng từ 18 đến 23% trong tổng chi cho giáo dục. Đơn cử như tỷ lệ chi so với GDP của Trung Quốc là 1,12%; Singapore là 0,79%; Thái Lan là 0,6%.
Nếu những định hướng mới trong Nghị quyết 71 được thể chế hóa thành luật và triển khai nghiêm túc và đồng bộ, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội xây dựng một nền giáo dục đại học “ít nhưng tinh”, đủ sức cung cấp đội ngũ nhân lực trình độ cao, sẵn sàng đóng góp cho mục tiêu phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới.
Cùng chia sẻ về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lưu Tiến Hưng - Hiệu trưởng Trường Sư phạm, Trường Đại học Vinh cho hay, khoảng 5 năm trở lại đây, kể từ khi Nghị định số 116/2020/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ học phí, chi phí sinh hoạt cho sinh viên sư phạm có hiệu lực, số lượng thí sinh đăng ký vào ngành Sư phạm tăng lên rõ rệt. Nhờ vậy, chất lượng đầu vào cũng được nâng cao đáng kể. Liên tục trong nhiều năm gần đây, sư phạm là nhóm ngành có điểm chuẩn cao nhất của Trường Đại học Vinh. Phần lớn thí sinh đăng ký vào ngành đều mong muốn được hưởng chính sách theo Nghị định 116, đồng thời xác định rõ gắn bó lâu dài với nghề giảng dạy.
Đặc biệt, Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị ban hành mang tính đột phá, có ý nghĩa sâu rộng ở nhiều phương diện trong giáo dục và đào tạo. Thứ nhất, đối với các nhà trường, đây là điều kiện để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, hạ tầng, tạo cơ chế thu hút, đãi ngộ đội ngũ nhà giáo, trong đó có các chính sách về lương, phụ cấp và ưu tiên trọng dụng nhân tài.
Thứ hai,đối với người học, Nghị quyết đặt trọng tâm đến công tác nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và nguồn nhân lực sư phạm nói riêng thông qua những chính sách hỗ trợ thiết thực, vừa giúp các em an tâm học tập, vừa mở rộng cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp ra trường.
Thứ ba, Nghị quyết còn chú trọng phát triển giáo dục cao đẳng và đại học, khuyến khích thu hút nhân tài trong và ngoài nước, thành lập các trung tâm nghiên cứu, tạo sự đột phá trong việc thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ. Những quyết sách này được kỳ vọng sẽ tạo môi trường thuận lợi để thầy và trò cùng thực hiện các ý tưởng khoa học, chuyển giao tri thức và ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Nghị quyết 71 thể hiện sự đầu tư, quan tâm, mở nhiều cơ hội phát triển giáo dục và đào tạo. Song, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lưu Tiến Hưng, đi cùng với đó cũng là thách thức đối với các trường. Để bắt kịp với yêu cầu mới, mỗi cơ sở đào tạo cần rà soát, xác định lại tầm nhìn, sứ mạng, chiến lược phát triển phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trong bối cảnh hiện nay, cũng như xây dựng chương trình hành động cụ thể theo từng giai đoạn, sát với Nghị quyết 71. Các yếu tố then chốt phải tập trung gồm đội ngũ, cơ sở vật chất và chương trình đào tạo.
Nhất là trong bối cảnh Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đang được triển khai, đào tạo sư phạm cần gắn sát với thực tiễn để cung ứng nguồn lực giáo viên có chất lượng cao. Đồng thời, về phía mỗi cán bộ giảng viên cũng cần nêu cao trách nhiệm tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ, tham gia đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học đáp ứng tinh thần Nghị quyết 71.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://giaoduc.net.vn/nhung-con-so-biet-noi-ve-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-post250367.gd
[2] https://daibieunhandan.vn/khong-lay-co-che-tai-chinh-de-phan-dinh-quyen-tu-chu-cua-cac-truong-10376723.html
Diệu Dương