Ông Nguyễn Ngọc Sơn phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)
Theo Đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn (Đoàn Hải Phòng), môi trường là yếu tố nền tảng không thể thay thế. Tài nguyên, khí hậu, hệ sinh thái là “đầu vào tự nhiên” cho mọi hoạt động sản xuất, sinh hoạt, dịch vụ. Mất môi trường là mất khả năng duy trì sản xuất, mất chất lượng sống và làm suy giảm năng suất xã hội. Do đó, môi trường là hạ tầng thiết yếu cho phát triển.
Ông Sơn nêu rõ: Môi trường quyết định tính bền vững chứ không phải tốc độ tăng trưởng. Một quốc gia có thể tăng GDP nhanh trong 5–10 năm, nhưng nếu đi kèm: Suy giảm chất lượng không khí; Ô nhiễm sông hồ, mất rừng, suy thoái đất; Chi phí y tế, thiên tai, mất đa dạng sinh học tăng vọt thì cái giá phải trả sẽ triệt tiêu thành quả tăng trưởng, và đẩy xã hội vào vòng xoáy “phát triển rồi phá hủy rồi chữa cháy”. Ngoài ra, môi trường là nền tảng thu hút đầu tư chất lượng cao, không gây hủy hoại dài hạn. Nếu môi trường yếu kém, Việt Nam sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng xanh toàn cầu. Ngược lại, một nền kinh tế xanh, có môi trường sống tốt sẽ là “lợi thế cạnh tranh trong kỷ nguyên mới”. Do vậy, phát triển kinh tế – xã hội sẽ không thể bền vững nếu môi trường tiếp tục bị coi là “hậu kiểm”, “đi sau”, hay “chốt chặn rủi ro”.
Toàn cảnh phiên họp (Ảnh: Quang Vinh)
Ông Sơn cũng đánh giá, việc thể chế hóa 3 trụ cột: Môi trường-kinh tế-xã hội chưa đồng bộ. Luật BVMT 2020 là nỗ lực lớn, nhưng chưa đủ mạnh để “trấn giữ” vai trò trụ cột nếu: Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu chưa lồng ghép đầy đủ tiêu chí môi trường. Việc đánh giá môi trường chiến lược, sức chịu tải vẫn còn hình thức. Công cụ kinh tế môi trường chậm phát triển. Thuế môi trường chủ yếu thu từ xăng dầu, không tái đầu tư hiệu quả, phí xả thải chưa được thu thực chất (đặc biệt với nước thải, khí thải, chất thải rắn), tín chỉ carbon, DPP, kinh tế tuần hoàn mới dừng ở chính sách, thiếu thực thi.
Do vậy, ông Sơn đề nghị Chính phủ cần tiếp tục phân tích đánh giá kỹ lưỡng vấn đề này. Chỉ khi nào coi môi trường là một trụ cột đúng nghĩa, mới có thể: gắn trách nhiệm BVMT vào đầu tư công, đầu tư tư nhân; áp dụng công cụ thị trường: thuế xanh, tín chỉ carbon, phí xả thải; lồng ghép môi trường vào quy hoạch, đấu thầu, ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng; định giá được tài nguyên – dịch vụ hệ sinh thái để đưa vào hạch toán quốc gia. Điều này còn là cơ sở thể chế hóa các công cụ tăng trưởng xanh.
Đưa ra dẫn chứng thực tế đang chứng minh, đầu tư FDI chất lượng cao chỉ đến với những nơi có tiêu chuẩn môi trường rõ ràng như: Apple, Samsung, Lego, Nike, Panasonic đều đặt ESG và phát thải carbon là điều kiện tiên quyết. Dự án LEGO (1 tỷ USD) chỉ đầu tư vì cam kết “điện tái tạo 100% và hệ thống tuần hoàn nước”. Nếu không có tiêu chuẩn môi trường rõ ràng, nhất quán, Việt Nam sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng xanh toàn cầu, kể cả khi có giá nhân công rẻ. Vì thế, môi trường minh bạch là “hạ tầng thể chế” hấp dẫn đầu tư, chứ không phải chi phí cản trở. Chính môi trường là động lực cho đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp công nghệ nội địa. Không đợi có công nghệ rồi mới bảo vệ môi trường, mà chính môi trường sẽ tạo nhu cầu công nghệ.
Ông Nguyễn Ngọc Sơn phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)
Để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị quyết giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật bảo vệ môi trường có hiệu lực thi hành” ông Sơn kiến nghị tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc môi trường là trụ cột bắt buộc trong 3 trụ cột phát triển bền vững. Trong đó, thứ nhất, tập trung phát triển công nghiệp môi trường như một ngành kinh tế độc lập. Đây là là nền tảng để Việt Nam tự chủ thiết bị, công nghệ, dịch vụ xử lý – tái chế – quan trắc thay vì lệ thuộc nhập khẩu, tạo chuỗi giá trị công nghiệp xanh – thu hút đầu tư chất lượng cao, làm nền cho kinh tế tuần hoàn, xuất khẩu công nghệ môi trường trong tương lai.
Thứ hai, triển khai kinh tế tuần hoàn, thay đổi mô hình sản xuất – tiêu dùng. Điều này giúp giảm phát thải, giảm áp lực tài nguyên và xử lý rác, tạo ra mô hình tăng trưởng mới ít tài nguyên, ít carbon, nhiều giá trị. Thứ ba, lồng ghép môi trường vào quy hoạch, đầu tư công, áp dụng công cụ tài chính và kinh tế môi trường. Biến môi trường thành hành vi kinh tế thông qua phí, thuế, tín chỉ, đấu giá, thị trường, giảm phụ thuộc ngân sách nhà nước, thúc đẩy xã hội hóa. Thứ tư, xây dựng hệ thống dữ liệu, quan trắc, chỉ số môi trường quốc gia. Điều này giúp Quốc hội, Chính phủ, người dân giám sát được chất lượng môi trường, tiến độ cam kết xanh.
Cùng với đó, kết nối chính sách môi trường với hội nhập và đầu tư xanh. Các hiệp định EVFTA, CPTPP, JETP, CBAM đều ràng buộc tiêu chuẩn môi trường, doanh nghiệp không đáp ứng sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng, thị trường xuất khẩu.
Việt Thắng - Trung Hiếu