Ông Nình đọc sách, báo nắm bắt thông tin để phục vụ công tác tuyên truyền ở khu dân cư
Khác với nhiều cựu chiến binh chúng tôi được gặp gỡ, trò chuyện, với những kỷ vật còn giữ lại từ thời binh lửa, đối với cựu chiến binh Nông Văn Nình không có kỷ vật gì trong quá trình tham gia kháng chiến, bởi lẽ ông thuộc “binh chủng đặc biệt” A72 (đơn vị chuyên về tên lửa vác vai).
Chuyện về “binh chủng đặc biệt”
Ông Nông Văn Nình sinh năm 1951, quê ở thôn Chợ Hoàng, xã Thượng Cường, huyện Chi Lăng cũ, nay là xã Bằng Mạc. Tháng 8/1971, khi vừa tròn 20 tuổi, gác lại việc học tập, ông tình nguyện lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc.
Sau khi nhập ngũ, ông và đơn vị được huấn luyện tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, chuyên về sử dụng tên lửa vác vai A72. Theo lời kể của ông, đây là loại tên lửa tầm nhiệt do Liên Xô tài trợ cho lực lượng phòng không của Quân đội nhân dân Việt Nam. Lực lượng được huấn luyện về loại vũ khí này được coi là “binh chủng đặc biệt”, bởi phải giữ bí mật tuyệt đối, không được viết thư từ, liên lạc về gia đình, trung thành tuyệt đối, khi bị địch bắt phải tìm cách phá hủy cơ cấu phóng (bộ phận để bắn tên lửa), không nói tên, địa điểm đóng quân của đơn vị, sẵn sàng cảm tử để bảo toàn cho đồng đội.
Sau một thời gian huấn luyện, tháng 1/1972, ông và đơn vị được lệnh hành quân vào chiến trường Quảng Trị. Lúc này, ông được biên chế vào Đại đội 2, Tiểu đoàn 172 (Tiểu đoàn độc lập). Sau hơn 1 tháng hành quân, đơn vị ông đến Quảng Trị. Tại chiến trường này, quân địch ném bom đánh phá ác liệt, nhất là khúc sông Thạch Hãn, thị xã Quảng Trị - đường duy nhất chi viện trực tiếp cho Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Từ cuối tháng 6/1972, quân ta chính thức bước vào cuộc chiến đấu giữ Thành cổ. “Ngày nối ngày, đêm nối đêm, chúng tôi sống, chiến đấu trên khoảng chiến trường chỉ vỏn vẹn khoảng 3km². Người trước ngã xuống, người sau được bổ sung, chưa kịp biết tên nhau, đơn vị đã “mòn” đi. Cứ thế, suốt 81 ngày đêm chiến đấu oanh liệt, quân ta đã bảo vệ được Thành cổ Quảng Trị” - Ông Nình hồi tưởng.
Ông kể, tại mặt trận Quảng Trị, đơn vị tên lửa của ông chốt ở khu đồi An Hô. Quá trình chiến đấu ở khu đồi này, đơn vị ông đã bắn rơi 2 chiếc máy bay địch. Theo hồi ức của ông, ở mặt trận Quảng Trị, lực lượng sử dụng tên lửa A72 của ta cùng với đánh chặn, phục kích máy bay địch, cảnh giác trước bom đạn của địch trên không còn phải cảnh giác trước pháo của hạm đội 7 phía địch ở ngoài biển bắn vào. Trong trận địa này phía ta hy sinh, thương vong nhiều. Bản thân ông trong quá trình chiến đấu tại khu đồi An Hô bị trúng một mảnh bom vào vùng đầu, mảnh bom đó xuyên thủng mũ cối, gắm vào phía gần đỉnh đầu, do sức ép của bom đạn và vết thương khiến ông ngất đi.
Có một chi tiết ấn tượng, xúc động với chúng tôi, đó là trong quá trình ở mặt trận Quảng Trị ông được cấp trên chọn để thực hiện kế hoạch luồn sâu vào lòng địch để thực hiện đánh địch từ trong tỏa ra. “Hành trang mà tôi sẽ được phát là quả lựu đạn, để nếu bị địch bắt sẽ dùng để hy sinh cảm tử. Điều này cũng đã được quán triệt ngay từ khi chúng tôi huấn luyện ở “binh chủng đặc biệt”, Với chúng tôi, “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nên được cấp trên chọn làm nhiệm vụ tôi thấy rất vinh dự, tự hào” - ông Nình nhớ lại. Tuy nhiên, sau đó kế hoạch tác chiến thay đổi nên chiến hoạch trên không được triển khai.
Trở về với vết thương trên đầu, nhưng ông thấy mình còn may mắn hơn nhiều đồng đội. Mùa hè năm ấy, mặt trận Quảng Trị có đến 3 mùa mưa: mưa bom bão đạn của quân thù, mưa của thời tiết với trận lụt lịch sử và “mưa đỏ”. “Mưa đỏ” chính là máu, là xương, là thân thể của lớp lớp người lính đã ngã xuống, hòa vào đất, vào dòng Thạch Hãn trong trận chiến bảo vệ Thành cổ. Ông Nình bùi ngùi: Những ngày tháng đó, phải nói sức chịu đựng của anh em thật phi thường, nhưng thương vong nhiều quá. Có những người nằm xuống, anh em chôn xong, bom lại cày lên... Những câu thơ của tác giả Lê Bá Dương như nỗi lòng cựu chiến binh như chúng tôi về đồng đội đã ngã xuống:
“Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm…”
Hành quân thần tốc
Sau mặt trận Quảng Trị, đầu năm 1973, ông và đơn vị trở ra Bắc, huấn luyện tại tỉnh Nam Định chuẩn bị cho chiến trường miền Nam. Đến tháng 3/1973 đơn vị ông được lệnh hành quân vào Nam chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Lúc đó, ông được giao nhiệm vụ là xạ thủ số 1 tên lửa A72. Thực hiện theo điện khẩn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”, đơn vị ông ngày, đêm hành quân, đồng chí nào ốm thì đưa ra thu dung, xe nào hỏng thì để bên đường. Bấy giờ, Mỹ không đánh phá trên không nữa, ngụy quân thì suy yếu nên cuộc hành quân của ta rất thuận lợi.
Đến đầu tháng 4/1975, đơn vị ông đến thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tại đây, cứ điểm ác liệt nhất là sân bay Phú Lợi. Bộ binh và xe tăng ta được pháo binh chiến dịch chi viện kịp thời, chính xác đã phát triển tiến công mãnh liệt, đè bẹp sự phản kháng của địch. Quá trình tác chiến, ông và đồng đội nhận được sự phối hợp rất chặt chẽ của các đơn vị địa phương. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, bộ đội ta đã làm chủ căn cứ Phú Lợi. Phát huy thắng lợi, các đơn vị phát triển tiến công, giải phóng thị xã Thủ Dầu Một, bắt toàn bộ ngụy quyền. Sau đó, đơn vị ông tiếp tục tiến quân tiếp quản căn cứ Tân Thuận Đông, thành phố Hồ Chí Minh.
Cống hiến giữa thời bình
Sau giải phóng, thống nhất đất nước, ông phục viên trở về địa phương và tiếp tục thực hiện ước mơ học tập còn dang dở. Năm 1976, ông thi đỗ vào Khoa Toán, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, nay là Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Ra trường năm 1980, ông về công tác tại Phòng Giáo dục huyện Chi Lăng. Từ năm 1988 đến năm 1990, ông học Trường Đảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc, nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Sau khi hoàn thành khóa học ông về công tác tại Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ. Ông có nhiều năm công tác tại đây, rồi chuyển sang công tác tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, nghỉ hưu năm 2011.
Sau khi nghỉ hưu, ông tiếp tục có nhiều cống hiến cho khối phố và ngành giáo dục như: Bí thư Chi bộ khối Cửa Nam, phường Lương Văn Tri, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh. Nhiều năm nay ông được bầu là người có uy tín khối Cửa Nam.
Ghi nhận những cống hiến trong tham gia kháng chiến, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng Nhì, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba. Trong công tác giữa thời bình, ông đã được các cấp, ngành tặng nhiều bằng khen, giấy khen và phần thưởng cao quý.
Bà Ngô Mai Trâm, Bí thư Chi bộ, Khối trưởng khối Cửa Nam, phường Lương Văn Tri cho biết: Khi còn công tác hay thực hiện nhiệm vụ ở khối phố, ông Nình luôn phát huy bản chất bộ đội Cụ Hồ, luôn gương mẫu, trách nhiệm, có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của địa phương, được người dân trong khối phố rất tin tưởng, quý mến, kính trọng.
HOÀNG HUẤN