Vừa bước tới sân của đền thờ Hai Bà Trưng - Di tích quốc gia đặc biệt (thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội), du khách đã thấy những hàng cây cổ thụ rợp bóng mát, không gian yên tĩnh, thanh tịnh với mùi hương hoa thơm ngát.
Đền thờ Hai Bà Trưng tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, thoáng giữa cánh đồng, nhìn ra đê sông Hồng
Bà Tạ Thị Hạnh (71 tuổi) cùng Hội nữ chiến sĩ Trường Sơn đường Hồ Chí Minh huyện Thái Thụy, Thái Bình di chuyển 150km để tới thăm đền thờ Hai Bà Trưng. Bà không giấu nổi xúc động khi về dâng hương trước anh linh của nhị vị Vua Bà.
“Chúng tôi vào chiến trường Trường Sơn khi 17, 18 tuổi. Những năm tháng chiến tranh, ngoài việc cùng nhau chia sẻ về quê hương và gia đình, chúng tôi hay kể cho nhau nghe những câu chuyện lịch sử hào hùng của dân tộc, về những anh hùng cứu nước, trong đó có Hai Bà Trưng. Những câu chuyện lịch sử như tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi trong cuộc chiến tranh cam go khốc liệt” - bà Hạnh kể.
Bà Hạnh (bên trái) - Chủ tịch Hội nữ chiến sĩ Trường Sơn đường Hồ Chí Minh huyện Thái Thụy, Thái Bình - đến thăm đền Hai Bà Trưng
“Vậy nhưng, phải tới khi đến đền Hai Bà Trưng tại Mê Linh, tôi mới được biết chi tiết, đầy đủ về thân thế, sự nghiệp, công lao của hai bà. Khi nghe nữ hướng dẫn viên nhắc về hình ảnh bà Trưng Trắc để ‘tang chồng không áo rũ, phục sức diệt quân thù’, tôi cảm thấy xúc động vô cùng” - bà Hạnh chia sẻ.
"Danh thơm muôn thuở, vọng cõi trời Nam"
Đền thờ Hai Bà Trưng được xây dựng trên vùng đất thiêng đắc địa, ngay chính nơi hai bà sinh ra, lớn lên, tế cờ khởi nghĩa giành thắng lợi, xưng vương và định đô.
Nữ hướng dẫn viên giới thiệu về thân thế, sự nghiệp, công lao của Hai Bà Trưng tới du khách
Thần tích kể lại rằng hai bà là chị em sinh đôi, chị là Trưng Trắc còn em là Trưng Nhị, quê ở làng Hạ Lôi (ngày nay), được sinh ra trong một gia đình quý tộc thuộc dòng dõi các vua Hùng. Hai bà có cha là Lạc tướng đất Mê Linh văn võ toàn tài, mẹ là bà Trần Thị Đoan công dung ngôn hạnh, đức độ hiền tài, thạo nông trang, giỏi chăn tằm dệt vải.
Vốn dòng dõi con nhà Lạc tướng, hai bà sớm được mẹ mời thầy giỏi trực tiếp dạy học nên khi lớn lên đều văn võ song toàn, có lòng thương dân và ý chí quật cường.
Năm 19 tuổi, bà Trưng Trắc kết hôn với ông Thi Sách - con quan Lạc tướng thành Chu Diên (vùng Sơn Tây ngày nay), cũng là người có ý chí quyết tâm chống giặc Hán.
Đền thờ Hai Bà Trưng ở huyện Mê Linh, Hà Nội
Trước cảnh nước mất nhà tan, ông Thi Sách và bà Trưng Trắc tính kế nổi dậy chống lại nhà Đông Hán. Thái thú Tô Định lập mưu kế hãm hại ông Thi Sách nhằm làm lung lạc ý chí của bà Trưng Trắc và tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Hành động đó đã thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc trong lòng Trưng Trắc. Bà và em gái đứng lên kêu gọi nhân dân khởi nghĩa, chống lại quân Đông Hán.
Mùng 6 tháng Giêng năm 40, hai bà đã cho quân sĩ lập đàn tế cáo trời đất, tiến hành khởi nghĩa.
Về cuộc hội thề này, sách Việt sử tiêu án từng viết: Khi Trưng Trắc ra quân, dù chưa hết tang chồng nhưng bà vẫn ăn mặc quần áo đẹp, các tướng hỏi, bà trả lời “Việc binh phải tòng quyền, nếu giữ lễ làm cho dung nhan xấu xí, thì có khác gì là làm giảm nhuệ khí, cho nên ta mặc đẹp như vậy để làm cho thế quân hùng tráng. Vả chăng, lũ giặc kia trông thấy, lòng sẽ không yên nên sẽ nhụt bớt chí khí chiến đấu, như thế thì ta sẽ thêm phần dễ thắng”.
Tượng thờ bà Trưng Trắc và bà Trưng Nhị tại ngôi đền
“Sau này, mỗi khi kể về hình ảnh bà Trưng Trắc để tang chồng không áo rũ, phục sức diệt quân thù, hầu hết du khách đều rưng rưng xúc động” - chị Quyên là hướng dẫn viên của Ban quản lý Di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt đền Hai Bà Trưng Mê Linh cho biết.
Chỉ trong hai tháng, hai bà đã thu phục được 65 thành trì, giải phóng toàn bộ đất nước, giành lại chủ quyền. Mùa hè năm 40, bà Trưng Trắc được tướng sĩ tôn lên làm vua, lấy hiệu là Trưng Vương, đóng đô tại lỵ sở Mê Linh.
Được tin bà Trưng Trắc xưng Vương, vua Đông Hán lập tức sai Phục Ba tướng quân Mã Viện đem 2 vạn quân, 2.000 thuyền xe kéo sang xâm lược nước ta. Sau hơn một năm cầm cự với giặc, do lực lượng hai bên quá chênh lệch, hai bà vừa đánh vừa rút về Cấm Khê (Yên Lạc, Vĩnh Phúc ngày nay).
Người dân và du khách khắp nơi đến thăm đền thờ Hai Bà Trưng.
Mã Viện đem quân đuổi theo, hai bà quyết chiến đến hơi thở cuối cùng. Về đến Hát Môn, hai bà gieo mình xuống dòng Hát Giang tuẫn tiết. Hôm đó là ngày 8/3 năm 43. Sau khi hai bà mất, nhân dân trong nước tôn kính lập đền.
Hai Bà Trưng được nhân dân suy tôn là Trưng Thánh Vương “danh thơm muôn thuở vọng cõi trời Nam”.
Ngôi đền linh thiêng thu hút du khách thập phương
Đền thờ Hai Bà Trưng Mê Linh tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, thoáng giữa cánh đồng, nhìn ra đê sông Hồng.
Ngày nay, khu di tích đền thờ Hai Bà Trưng Mê Linh được trùng tu, tôn tạo với quy mô rộng 13ha, được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng là Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt vào năm 2013.
Cảnh quan khu di tích khang trang, uy nghiêm
Khu di tích gồm nhiều hạng mục như: cổng đền, nhà khách, nghi môn ngoại, nghi môn nội, gác trống, gác chuông, nhà tả - hữu mạc, tam tòa chính điện thờ Hai Bà Trưng, đền thờ thân phụ - thân mẫu, sư phụ - sư mẫu của Hai Bà, đền thờ thân phụ - thân mẫu của ông Thi Sách và ông Thi Sách, đền thờ các nữ tướng triều Hai Bà Trưng, đền thờ các nam tướng triều Hai Bà Trưng...
Tam tòa chính điện và các đền thờ hai phía tả, hữu là những kiến trúc bằng gỗ lim được chạm trổ họa tiết sinh động và tinh tế. Tượng thờ, nội thất, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng hài hòa, lộng lẫy và trang nghiêm.
Phía trước Tam tòa chính điện thờ Hai Bà Trưng
Tượng thờ, nội thất, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng hài hòa, lộng lẫy
Đền thờ thân phụ - thân mẫu, sư phụ - sư mẫu của Hai Bà và đền thờ thân phụ - thân mẫu ông Thi Sách và ông Thi Sách
Phía trước chính điện là sân trên, sân trong, sân ngoài, đều được lát bằng đá phiến, rợp bóng cây cổ thụ. Sân trong còn gọi là sân nghi lễ, lát đá theo hình chiếc chiếu hoa lớn ở giữa và hình chiếc chiếu hoa nhỏ ở hai bên để chồng kiệu, bài trí voi, ngựa, cờ xí… khi có lễ tiệc, tế lễ uy nghiêm.
Sân trong, nơi tổ chức các nghi lễ
Sân ngoài có kiến trúc hình "ngũ phúc" với ngọn đá thề giữa sân và 4 bồn hoa hình con dơi ở các góc. Lời thề của Hai Bà Trưng khi làm lễ tế cờ được khắc vào ngọn đá, 18 cỗ voi đá đặt ngay ngắn thành hai hàng bên sân đá hướng vào giữa sân, tượng trưng cho voi của 18 đời vua Hùng.
Hai bên của sân ngoài là khu vườn hoa cây cảnh, non bộ, thảm cỏ, đường dạo và khu trồng cây lưu niệm của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Sân ngoài có kiến trúc hình "ngũ phúc"
Trong đền ngày nay còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý như hai cỗ kiệu Bát Cống - Long Đình từ thế kỷ XVII, gươm trường, bát bửu, cửa võng, hương án (đúc năm 1803)...
Trong Tiền tế và Hậu cung còn nhiều hoành phi, câu đối mang ý nghĩa tự hào dân tộc, ca ngợi công đức của Hai Bà Trưng.
Hai cỗ kiệu Bát Cống - Long Đình và nhiều cổ vật được lưu giữ trong đền
Đền lưu giữ 23 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam, từ sắc phong sớm nhất là đời vua Lê Hiển Tông cho đến sắc phong triều Nguyễn năm Khải Định thứ 9. Trong đó bao gồm sắc phong tôn hiệu cho hai bà và các sắc chỉ cho dân làng Hạ Lôi, các vùng lân cận phải phụng thờ hai bà, chăm sóc, giữ gìn ngôi đền.
Nơi lưu giữ 23 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam
Ngôi đền là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân Hạ Lôi và khách thập phương. Hằng năm, lễ hội đền Hai Bà Trưng được tổ chức từ mùng 4 đến mùng 10 tháng Giêng âm lịch, thu hút hàng vạn lượt khách.
Vào những dịp đặc biệt, như ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, nhiều tổ chức, đoàn thể thường về đây dâng hương, ôn lại truyền thống vẻ vang của dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước, tự tin, tự lực, tự cường của phụ nữ Việt Nam.