Xuân lững thững xách giỏ đồ xuất hiện ở xưởng tàu từ rạng sáng, mồ hôi rỉ ướt lưng. Chỉ tầm nửa tháng đổ lại, làng chài vốn thưa người lại xuất hiện loạt thợ tàu từ khắp ngả đổ về, nghe đâu tập trung nhân lực thử nghiệm thuyền đánh cá cỡ đại, kiểu mới. Lại nghe mời cả kỹ sư du học bên Tây, bên Tàu về thiết kế, cải tiến từ mô hình ở mãi vùng sông Gianh nhưng làm to hơn, hai đáy để tránh cướp biển. Quái lạ, vùng này bao đời làm gì có cướp. Mà, nếu thật, mặt mũi nào để nhìn bà con, xóm làng.
Kháng chiến chống Mỹ đã vào hồi cao trào căng thẳng. Rào kẽm gai mọc khắp miền Nam, ghim sâu vào đất khiến đồng bào anh không ngừng rỉ máu. Họ là những người nông dân quen việc cấy cày, chưa quen chuyện binh nghiệp đã sẵn sàng cầm súng đứng lên chiến đấu. Chiến tranh chẳng phải trò đùa, súng đạn không có mắt mũi, chỉ có một bên nã đạn còn một bên hoặc bị thương hoặc bị giết chết. Duy chỉ có một cách là cầm súng lao vào chiến trường, chiến đấu một mất một còn.
Mưa bụi bay lất phất trong tiết trời se lạnh cuối vụ đông xuân, đêm nay không quá rét nhưng vẫn làm bước chân anh nặng trĩu, cô độc trong từng nhịp thở hiu quạnh, tịch mịch. Chẳng hiểu vì sao tiếng rì rầm sóng vỗ giữa trời khuya thanh vắng, miên man thế này lại làm lòng anh nao nao buồn khủng khiếp.
Anh đã rời xưởng đóng tàu gần ba mươi phút nhưng vẫn đứng ngần ngừ nơi bờ biển, để mặc sóng từng cơn xô nhau vào bờ, vùi lấp đôi bàn chân lún sâu vào cát trắng. Xuân đã đứng nơi đây, sau mỗi ngày dài 12 tiếng liên tục đục đẽo ở xưởng tàu đến mức khiến anh nghi hoặc tự nghĩ mình tham gia kháng chiến hay chỉ được tuyển chọn để đi làm việc chân tay?
Anh là đứa trẻ mồ côi cha từ ngày lên 5, vắng mẹ từ thuở lên 8, theo chú ruột học nghề thợ mộc. Chỉ ít ngày nữa thôi, chờ những con tàu thành đủ hình hài, những chuyến ra khỏi thuận buồm xuôi gió, có lúc Xuân nghĩ sẽ rời nơi này trở về xứ cũ, xin làm bất kì một công việc nào khác, chỉ cần được tự mình cầm súng chiến đấu. Nhưng, thật sự, anh chưa muốn về.
Cha anh mất vào nạn đói năm 1945, khi Xuân chưa kịp lớn để ghi nhớ gương mặt. Trong kí ức của đứa trẻ lên 5 ngày ấy, chỉ mơ hồ nhớ được dáng hình thấp gầy, bị tật nhẹ ở chân. 3 năm sau, mẹ anh bệnh một trận thương hàn, thuốc thang gắng sức chạy chữa cũng không qua khỏi. Anh nhiều lần tự hỏi, nếu không có chiến tranh, liệu đời anh có trở thành kẻ mồ côi, như món hàng đã cũ từng bị ruồng bỏ, vứt vào nơi xó xỉnh chẳng ai ngó ngàng.
Anh đã đón sinh nhật tuổi 18 theo cái cách lạ lẫm chẳng ngờ. Nó đến vào một buổi chiều cuối năm, trong tiếng cát bụi thổi xốc xổ mịt mù trên con đường đất đỏ quanh co dẫn vào làng. Không khí tưởng chừng đặc quánh lại như một lời báo hiệu điềm tang tóc. Tràng súng nổ xé toạc cả ngọn đồi, xác chú Phong nằm ngã rạt bên gò đất lạnh trước hiên. Anh đã chết đứng ở bãi kẽm gai, trông rõ cái mặt rỗ đang nhếch mép cười như vừa lập được chiến công lớn. Chú anh là người thứ ba trong làng bị giết, chỉ vì lời tình nghi giấu Việt Cộng của thằng chuẩn úy khốn nạn quỷ tha ma bắt nào.
Minh họa: Hà Huy Chương
- Chỉ mong cha mẹ, chú Phong phù hộ cho chuyến tàu đợt này xuất phát thuận lợi, bình an.
Trong căn phòng chật chội, bụi gỗ phủ mịt mờ, những con tàu lần lượt thành hình, sừng sững, đồ sộ. Bọn anh đã luân phiên ở xưởng 12 tiếng một ngày, thức dậy trước bình minh và trở về sau nắng hoàng hôn mờ tắt.
- Anh Xuân, đóng xong tàu, anh xin chỉ huy cho em theo đoàn với.
- Anh tưởng chú muốn chóng về với ba má?
- Ba má đâu nữa mà về. Tụi Ngụy lập ấp chiến lược ở quê, bó cụm mấy nhà thành một để tiện quản lý. Chúng bảo ai chỉ điểm được Việt Cộng thì thưởng đậm, còn phát hiện ai bao che thì xử chém, thà lầm còn hơn bỏ sót. Vừa tháng trước chúng nó nghi ba má em giấu bộ đội, gặng hỏi mãi không được thì đốt nhà.
Giọng Tòng - cậu bạn cùng phòng thoáng khựng lại, run lên từng nhịp. Đêm đã khuya, ánh trăng sắp cạn, chỉ còn thứ tia sáng lập lòe từ ngọn đèn dầu rọi lên khuôn mặt chàng trai trẻ.
- Em muốn xin được ở lại, theo đoàn đi kháng chiến. Bỏ mạng cũng được chứ mất nhà, mất nước thế này thì nhục lắm, thà chết còn hơn.
Sâu thẳm đáy mắt chàng thanh niên trước mặt Xuân như có ánh lửa cháy bừng. Chiến tranh đã trải đau thương cho làng anh, cho quê hương anh bao ngày dài, tháng rộng. Ngay sau ngày chú Phong chết, anh đã thức trọn một đêm bên ngọn đèn dầu leo lét để rồi lá đơn tình nguyện nhập ngũ kết thúc bằng giọt nước mắt lăn dài. 20 năm anh chỉ quen đục đẽo những thanh gỗ thành cái bàn, cái ghế chứ đã biết đến khẩu súng, viên đạn bao giờ. Nhưng, lá đơn nắn nót từng chữ ấy đã trải kín 3 trang giấy bằng lý tưởng cùng lời hứa “thà chết chứ không nhục lòng”.
- Anh Xuân, hứa với em nhé!
- Hứa gì?
- Thì cho em theo đoàn, chữa tàu hỏng là nghề gia truyền mấy đời của nhà em. Vặn ốc, tháo đinh cam kết thoăn thoắt, đừng chê em nhỏ người mà giao mãi mấy việc hậu cần, bếp núc thế này.
- Nhưng, anh chứ có phải đồng chí chỉ huy đâu mà chú xin. Mà này, anh hỏi thật, chú có khai gian tuổi để đi lính không đấy. Anh nhìn chú chẳng giống 18 chút nào.
Tòng nghe vậy thì gãi đầu, gãi tai, rụt rè đáp lời lí nhí:
- Em khai gian lên 2 năm, chứ khai đúng tuổi, em sợ họ bác đơn, không xem xét cho vào quân đội.
- Nói trộm ở đây thôi nhé, quân mình trong Nam nghe bảo hi sinh nhiều, đợt này đi bước đầu để thăm dò, nắm tình hình đường hướng, bến bãi. Chú có xin, các anh ở trên cũng không bố trí cho theo đâu, nếu muốn phải đợi đợt sau để liệu tính tình hình.
Kệ xác, Tòng mất hứng cứ ngồi mân mê cái thuyền nan mô hình bé tẹo ở đầu giường, ngửa cổ ực một phát hết bi đông nước rồi xoay người, kéo chăn đi ngủ, mặc kệ lời cảnh báo vừa rồi của Xuân. Thế là kết thúc hẳn màn tâm sự, trò chuyện đêm khuya của hai chàng lính.
*
Con tàu ra khơi khi hoàng hôn gieo hẳn mình xuống biển. Chục ngày trời giữa sóng biển lênh đênh, mắt Xuân cay xè, lồng ngực khó thở, tưng tức, còn miệng thì khô khốc, mặn chát vị tanh nồng của muối biển. Anh xoay mình nhìn Tòng đang nằm co quắp người bên cạnh, thằng bé gầy đi nhiều so với ngày đầu nhận công tác về xưởng tàu. Xuân kéo chăn đắp kín chân cho Tòng, bồi hồi nhớ lại cái hôm trước ngày rời bến.
- Báo cáo anh... xin phép cho em được theo đoàn.
Tòng đã đứng bật dậy giữa hàng quân, im lặng vài giây rồi bỗng đứng nghiêm lại, vẻ mặt cứng rắn nhưng cầu khẩn. Chỉ huy tiểu đội bất ngờ, mở to mắt:
- Cậu là người trẻ nhất ở đây, tàu đi dài ngày, chưa định rõ bao giờ quay về, ở lại làm anh nuôi vẫn hơn. Nhiệm vụ nào chẳng là làm cách mạng.
- Thưa anh, cho phép em xin đi theo tàu. Nhà em ở gần khu vực sông nước, có kinh nghiệm theo tàu thuyền từ bé, em đảm bảo hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Xuân thấy thằng bé hăng hái thì cũng mạnh dạn, tiến lên một bước khỏi hàng, nói đỡ lời.
- Tôi xin phép đề xuất đồng chí Tòng theo đoàn tiếp viện vào Nam. Chúng ta cần người có kinh nghiệm đề phòng những trường hợp sự cố bất ngờ.
Chỉ huy đã nhìn thẳng vào đôi mắt Tòng. Đầy nét thoăn thoắt, nhanh nhẹn như một con sóc. Cậu chỉ ra những yếu tố làm tàu dễ hỏng khi đi lại giữa biển và cách xử trí linh hoạt cụ thể trong từng trường hợp thế nào. Tòng nói rất thạo và tỏ ra là người có nhiều kinh nghiệm thực tế.
- Cũng được, nhưng mà...
Tòng hồi hộp nhìn vào khuôn miệng đồng chí tiểu đội trưởng trước mặt đang mấp máy:
- Chữa hỏng, lần sau không cho đi nữa...
Toàn tiểu đội nghe đến đây thì không nhịn được, cười ồ lên. Tòng thở phào, nhìn sang Xuân, nhe răng cười như trút được gánh nặng. Tàu tiến bon bon về phương Nam, dự kiến cập bến ở vùng đất mũi nếu không có phát sinh trục trặc. Đêm qua Xuân đã chiêm bao thấy giữa mặt biển dông tố, máy bay địch quanh quẩn trên đỉnh đầu, con tàu thì nằm chơ vơ giữa mặt biển, khi tỉnh giấc thì mô hôi đã ướt đẫm đầm đìa.
So với chiến đấu trên đất liền, đi lại giữa biển thế này cảm giác trống trải không sao tả được, gần như hoàn toàn không có yểm trợ nếu bị phát hiện và tấn công. Địch vẫn khinh thường quân ta lạc hậu với những quân đoàn thiếu hụt trang bị, vũ khí. Chúng nằm mơ thế nào cũng chẳng ngờ có ngày quân ta có tàu băng băng trên biển, vận chuyển hàng tạ, hàng tấn vũ khí vào chiến trường miền Nam thế này.
Tòng nghịch ngợm lôi nhật kí ra vẽ tranh, chốc chốc lại rút người vào chăn cười khúc khích như vỡ lẽ ra điều gì mới mẻ.
- Hôm nay cậu cho cả tàu ăn cơm khê, thế mà còn tâm trạng để cười?
Trong công tác của mình, Xuân luôn nghiêm chỉnh đến mức có phần cứng nhắc. Đầu óc anh lúc nào cũng canh cánh chuyện phải chấp hành kỉ luật quân đội, chuyện giờ giấc sinh hoạt, chuyện chiến đấu thao trường,... Sự vô tư lúc này của Tòng bỗng làm anh thấy khó hiểu, khó chịu vô cùng cực. Nhẽ ra, Tòng nên nghiêm túc kiểm điểm về hành sự của mình mới đúng. Xuân vừa nhìn vừa lẩm bẩm như nói một mình:
- Chú đến tếu nhỉ, không thấy mình vừa gây tội lỗi à?
- Không phải em không chú tâm, mà em vừa phát hiện ra việc hay ho hơn nhiều so với chuyện đứng bếp.
Chưa chờ cho Xuân kịp tiếp lời, Tòng đã nhanh nhảu nhảy phốc sang chỗ nằm của Xuân, chỉ cho anh xem những nét vẽ nguệch ngoạc vừa thành hình ở trang nhật kí ban nãy.
- Tàu chúng ta cải trang thành dạng đánh cá không số hiệu, nếu cứ đi luồn tuôn thế này, chỉ sợ chưa về đến bãi đổ đã cạn sạch nhiên liệu, lương thực cũng không đảm bảo. Máy bay dò thám của Mỹ, em đếm chừng một ngày hơn 5-6 lượt thăm dò, ngụy trang mãi thế này cũng không phải cách hay.
- Nhưng, chú tính thế nào?
- Nghiên cứu lại bãi đổ dừng chân tạm thời để tiếp thêm nhiên liệu, cũng đặng để anh em kịp phục hồi. Em thấy động cơ của tàu mình bắt đầu xuất hiện vấn đề, nếu không chữa gấp, e không ổn.
Theo tàu xuất phát từ giữa tháng mười, bây giờ nhắm chừng vào đầu đông, rét đã ùa về tận hai đợt, các “thuyền viên” đã lăn lộn gần 2 tháng trời với sóng biển, cảnh giới hàng trăm lượt máy bay địch thăm dò. Cuộc đi càng kéo dài, sức khỏe của bộ đội càng giảm sút, chỉ sợ không cầm cự nổi trước ngày vào được đất liền miền Nam. Bộ đội vận chuyển đi đường bộ, có rừng che chở, có dân yểm trợ, còn các anh nếu cứ nghĩ theo lối mòn cũ, không phải là cách hay. Khuya qua, Xuân lại thấy tiểu đội trưởng khoác áo bông, lẳng lặng đi ra, đoán chừng lại muốn chỉnh sửa điện đài vô tuyến. Nói ra chỉ sợ anh em trên tàu lo lắng nhưng cái việc sóng biển làm hỏng điện đài, tàu mất liên lạc với sở chỉ huy phần lớn mọi người đã nắm rõ.
- Tàu gặp khó khăn, có đi tiếp nữa không hay về lại đất liền để sửa chữa?
- Đi tiếp. Quay đầu thì biết bao giờ mới kịp chở đạn dược cho anh em miền Nam. Các anh có biết, một viên đạn bây giờ còn quý gấp nghìn lần vàng bạc.
Tuy miệng nói thế nhưng trong lòng tiểu đội trưởng lúc này cũng còn nhiều thắc mắc... Không hiểu nếu không bắt được tín hiệu thì liên lạc, đáp tin thế nào khi cập tàu vào bến bây giờ?
*
Trời đổ tối, sóng mỗi lúc một cao, đánh mạnh vào hai bên mạn, va vào nhau kêu lên chan chát. Tàu vừa băng qua khỏi bãi ngầm, chất đầy những mỏm đá mà mẹ thiên nhiên vót nhọn hoắt thì lại gặp bão kéo về. Chỉ huy đặt tên tàu theo kiểu rất văn vở: “Phương Đông”, mà nếu chuyến này thắng lợi, nó sẽ trở thành “Phương Đông 1” và lần lượt số 2, 3, 4... sẽ theo sau nhanh chóng.
Đêm hôm đó, Xuân mới nhận thấy hết sự khốc liệt của đợt bão dữ này. Đấy là lần đầu tiên anh bắt gặp con tàu rung lắc, mất kiểm soát. Ruột gan anh nóng như lửa đốt. Khí hậu vùng này nghĩ cũng lạ, ngày thì nắng rát bưng mặt, đêm lại rét như cắt vào thịt da. Cả người Xuân ướt đẫm, không rõ mồ hôi hay nước biển hất văng vào. Bởi, chúng đều mặn, đều chát như nhau và người nào trong số bọn anh cũng lừ đừ, phờ phạc. Đã 2 giờ trôi qua, con tàu nghiêng ngả như bị mất phương hướng, chới với giữa bốn bề.
- Báo cáo đồng chí tiểu đội trưởng, phát hiện tàu có lỗ thủng ở phần đáy, bắt đầu xuất hiện tình trạng nước biển ngấm vào.
Đồng chí tiểu đội trưởng thoáng tái mặt nhưng rất nhanh, lại ổn định tình hình, nói to như thét:
- Đồng chí nào xung phong chữa tàu. Nếu không nhanh, nước biển ngấm vào đạn dược, thuốc men thì hỏng cả.
Xuân chưa kịp suy nghĩ thì một cánh tay giơ phắt lên:
- Báo cáo! Tôi xung phong! Tôi xin nhận nhiệm vụ chữa tàu...!
Cả tàu nhìn về hướng chàng anh nuôi dáng người thấp nhỏ. Là Tòng, ánh mắt quyết liệt như khẳng định chắc nịch nhiệm vụ.
- Nhưng, nhiệm vụ này, sẩy chân thì không chắc còn mạng trở về.
- Báo cáo các anh! Xin cho em liều sức, trước ở nhà, năm nào ba má cũng cho em theo tàu ghe đi đánh cá cả tuần liền.
Tiểu đội trưởng hơi do dự nhưng rồi cũng gật đầu đồng ý:
- Cũng được nhưng mà phải có người yểm trợ, bảo đảm cho cậu ấy hoàn thành nhiệm vụ. Cho dây buộc vào người, đuối sức mà chưa tìm ra điểm thủng thì giật dây để mọi người kéo lên còn thay người khác.
Tòng “dạ” một tiếng rõ vang, nhanh nhảu quấn 2-3 vòng dây, buộc chặt vào cơ thể.
- Chuẩn bị!
Tiểu đội trưởng hô lớn.
- Báo cáo đồng chí! Tôi sẵn sàng!
Phốc một cái, Tòng đã nhảy ùm xuống biển dữ, bơi nhanh như cá kình, hì hục lặn xuống sâu, một lúc lại ngoi lên lấy hơi để tiếp tục. Cậu bây giờ đã trở thành cái chấm tròn bé xíu, giữa biển khơi dữ dội, như đi tìm cái chết cho chính mình để cứu lấy cho con tàu sự sống. Hai chục phút trôi qua, Tòng vẫn hì hục để xác định điểm thủng. Đột nhiên, cậu giật mạnh sợi dây, vừa nói vừa thở hổn hển:
- Thảy xuống cho em hộp dụng cụ, em tìm được chỗ thủng rồi.
- Giỏi quá!
Cả đoàn tàu hò lên như cổ vũ tiếp thêm khí thế. Nhìn Tòng, Xuân như thấy một con người khác hẳn chàng trai vô tư hay cười nói thường ngày. Một suy nghĩ hết sức mới mẻ chạy ngang trong đầu óc anh, đến rất nhanh chóng, như cực kỳ rõ ràng: Người chiến sĩ không nhất thiết phải cầm súng lao vào địch thì mới tỏ được khí phách kiên cường mà bất kể ở phút giây nào, làm bất kì nhiệm vụ gì cũng đều cần gai góc. Tòng nghỉ một chập rồi lại tỉ mẫn, cẩn thận thực hiện phần công việc của mình. Sóng biển từng đợt đánh ập vào thân người mỏng manh của cậu, nhưng lạ thay, toàn thân Tòng như có giáp sắt, chẳng hề hấn gì. Đúng như lời cậu nói với Xuân ngày trước: “Chết đã là gì, sống mà mất nước thì còn nhục hơn”.
Các đầu ngón tay Tòng đã cứng đờ, rỉ máu, hòa với nước biển lại càng rát bỏng. Giây phút này, tai cậu đã ù dại, mắt đã mờ, lấp đầy hơi gió cay xè, buốt óc. Hai mắt cậu chỉ còn thấy vệt dài loang loáng máu trước mặt và đôi tay gắng sức thật nhanh như cỗ máy được lập trình vận hành theo hệ thống. “Chết cũng được nhưng phải xong nhiệm vụ” - Tòng nghĩ thầm rồi xốc lại khối óc, bất thần vút lên, liến thoắt như tên đạn.
- Báo cáo! Đã hoàn thành nhiệm vụ, cho phép tôi được lên tàu.
Xuân và hai đồng chí khác thi nhau, người hô hào, người dồn sức kéo mạnh sợi dây thừng đưa Tòng trở lại tàu nhanh chóng. Bấy giờ, anh em đã đổ xô lại, ôm chặt lấy cậu, người xoa đầu, có người còn ghì xuống thơm lấy thơm để hai má:
- Lần sau cơm khê cũng được! Anh em quyết không mắng cậu nữa. Hứa luôn nhé!
Cả tàu cười, reo lên, ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Bão vẫn tiếp tục suốt cả ngày dài, cho đến tận khuya mới giảm dần, biến thành áp thấp. Con tàu cập bến trễ một ngày so với dự tính, vẫn đảm bảo số vũ khí, thuốc men, đạn dược theo nghị quyết ban đầu của đảng ủy cấp trên.
Sương đêm lạnh, rơi thấm ướt tóc mai của đoàn quân trên con tàu không số đã hoàn thành nhiệm vụ lần đầu. Bờ biển bao la, một cơn gió nhẹ bẫng đã cuốn đi dòng suy nghĩ miên man của Xuân gửi lại miền đất phương Nam anh hùng. Tiểu đội trưởng vừa đánh điện báo cáo tình hình về sở chỉ huy và nay mai, những đoàn tàu khác lại nối đuôi ra khơi, gói ghém tất thảy niềm hy vọng của nhân dân miền Bắc. Ngọn nến cuối cùng tắt vụt, phảng phất hương bồ kết thơm dịu từ vạt áo sau cả tháng dài lênh đênh giữa đất trời. Bên này, Tòng đã chìm hẳn vào giấc ngủ, chốc chốc lại khúc khích cười như đang lạc vào thế giới thần tiên nào. Tiên sư cậu, bé thế đã trở thành anh hùng!
Truyện ngắn của Đặng Lê Cát Tiên