Tôi chưa kịp hỏi em tên gì, ở lớp nào, thì cô bé lao đi. Ăn vội bát cơm nấu từ tiết một, chợt nhớ tới cái bì tải hồi trưa, tôi mở ra. Một túi măng khô lớn, bên trong có hai lá thư. Một thư không dán. Ngoài phong bì đề: Em Lê Thị Mai, học sinh lớp... khóa... kính gửi thầy... Tôi bỏ thư vào cặp rồi ngả xuống giường để lấy sức dạy buổi chiều.
Buổi tối, tôi chuẩn bị bài giảng, thấy hai lá thư. Tôi đọc thư không dán.
“Thưa thầy, em là Lê Thị Mai, học lớp 10 A5, thầy làm chủ nhiệm hơn hai năm trước. Ngày ấy, vì em bỏ học mà thầy đến nhà hai lần vận động bố mẹ em. Đến lần đầu, thầy gặp mẹ em. Vì ngại bố dượng nên mẹ nói tránh. Lần sau, thầy gặp cả hai. Thầy tiếp tục công việc hôm trước. Bố lấp lửng là... tùy. Mẹ thì nhỏ nhẹ: hoàn cảnh khó khăn, để nhường phần học cho đàn em. Vả lại, học đến đây cũng nhiều... chữ rồi.
Em không muốn bỏ học, thầy ơi! Chỉ bảy tháng nữa là em có tấm bằng. Chuyện xảy ra thật đáng tiếc mà chắc cả đời em không thể quên. Mong ước cháy bỏng của em là thi vào sư phạm dưới tỉnh để mai sau dạy ở trường làng. Nhiều chị trong xóm khóa trước em cũng thành cô giáo. Lương còn thấp nhưng cả đời không phải cảnh nắng mưa dưới ruộng trên rẫy như bố mẹ. Em đành từ bỏ ước mơ. Cảm ơn tấm lòng của thầy dành cho nhiều học trò nghèo, trong đó có em hơn hai năm qua. Tháng sau em lấy chồng. Chắc là em không mời thầy... Có thầy, em... sẽ khóc! Tình cảnh của em khác các cô gái trong làng. Đành sớm khép lại thời thiếu nữ mộng mơ, thầy ạ...”.
Gấp lá thư, dáng hình Mai dần tái hiện trong tôi. Vậy là cô học trò ngoan ngoãn, xinh đẹp như một bông hoa của núi của rừng sớm khép lại đời thiếu nữ. Chẳng biết có phải lấy chồng để... chạy đói, để nhà bớt đi một miệng ăn như trong văn Nam Cao hay không, nhưng tôi biết, với gia cảnh ấy, Mai về nhà chồng cũng nghèo như mẹ đi làm dâu ngày trước. Suốt đêm dài tôi nghĩ về Mai.
Sáng Chủ nhật, tôi ra chợ huyện. Cả tuần bận dạy, ăn uống qua loa nên người cũng mệt. Trường gần chợ. Đang lững thững đi thì tôi gặp mẹ của Mai. Bà chào tôi. Hai người vào quán nước ven đường.
Minh họa: Lê Trí Dũng
Rót chén trà mời, tôi hỏi: “Cô gặp cháu vì chuyện của Mai phải không? Từ khi em thôi học, cháu cũng ngại đến nhà cô. Nhưng, ẩn sâu trong cháu, Mai là cô học trò chăm ngoan. Cháu muốn Mai học xong cấp ba rồi thi lấy cái nghề để tương lai rộng mở. Nhưng, chuyện buồn đã xảy ra”.
Bà mẹ khẽ thở dài: “Khi Mai thôi học, thầy từng đến nhà. Mỗi bận thầy đều mang nhiều sách vở giấy bút cho mấy chị em. Tôi nghĩ, không nhiều thầy cô ở đây lại đau đáu chuyện học sinh bỏ học như thầy. Gặp thầy, tôi muốn nói rõ lí do con gái mình thôi học”.
Giọng bà mẹ nghẹn dần, đầu cúi thấp, đôi mắt rơm rớm nước. Tôi bảo: “Mời cô đến quán Hoa Mai ạ. Ở đây, chỉ có thể mua mấy cái bánh khô thôi. Lâu ngày rồi cháu muốn cùng cô hàn huyên. Nói thật, cháu muốn đến nhà, gặp Mai, nhưng ngại. Cháu là... thầy giáo”.
- Thôi, lại Hoa Mai cũng xa. Tranh thủ một lát thôi, uống nước là được - Người mẹ nhẹ nhàng.
Tôi mua bánh gạo và ít trái cây cùng cô chuyện trò. Những lời của bà mẹ giúp tôi hiểu hơn về Mai, biết lí do em phải bỏ học. Chuyện mỗi lúc một nỗi niềm, thấm đẫm tình mẹ con.
“...Mai không phải là con ông chồng hiện chừ mà của anh bộ đội từ chiến trường miền Nam ra an dưỡng. Hồi ấy bộ đội ở nhà dân hai tháng. Họ ít luyện tập quân sự, chủ yếu là hồi phục sức khỏe, giúp dân làm đường, sửa sang trường học, nhà trẻ, dạy hát cho thiếu nhi. Tình quân dân gần gũi. Lúc nớ tôi sắp hai mươi, tuổi biết rung động, thương yêu. Gái làng mới lớn, lần đầu được nghe giọng các anh bộ đội ngoài Bắc, lòng dễ xao xuyến. Ngoại hình của tôi lại nổi hẳn so với trang lứa ở xóm dưới làng trên.
Hồi ấy, trai tuổi mười tám đôi mươi đi bộ đội ráo cả. Người ở nhà không mắc chuyện sức khỏe thì đầu óc có vấn đề. Nhiều trai mới lớn để ý tôi. Nhưng, họ quá lệch so với các anh bộ đội được ví như những “Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi” đang ở trong làng. Nhiều anh bộ đội để ý tôi. Trong số ấy có một sĩ quan trẻ, quê ở Hải Phòng, đẹp trai rắn rỏi, gần gũi rồi tỏ tình.
Thời gian hai người tìm hiểu nhau không dài nhưng tình cảm thì sớm mặn nồng. Nơi gặp phần nhiều là bên con suối chảy qua làng. Ban ngày tôi phải đi làm công điểm. Chuyện gái trai chả ai nói trước được. Anh ấy bảo sẽ phải hành quân vào Nam bất chợt. Đánh nhau ác liệt, có thể... hy sinh. Tôi mềm lòng rồi không may có thai. Chưa kịp làm đám cưới thì đơn vị anh hành quân gấp. Anh sấp ngửa chạy đến nhà, để lại lá thư trong túi áo vest tôi thường treo ở cửa; kèm theo cái khăn tắm, chiếc lược làm bằng xác máy bay, cái mũ cối.
Bữa đó cả nhà đi làm rẫy ở đồi xa. Thời điện thoại chưa có. Trời tối, từ rẫy về, tôi tắm rửa rồi đem quần áo, cả chiếc áo vest ngâm trong chậu. Mờ sáng, tôi mò mẫm giặt quần áo, rồi đi rẫy. Chiều về lấy quần áo từ dây phơi vào, khi gấp, tôi mới thấy trong túi áo có lá thư bị nát nhòe. Tôi linh tính đây là thư của anh. Hành quân vào đến Quảng Bình, anh viết thư cho tôi. Thư dặn là địa chỉ bố mẹ, quê quán, anh đã nói rõ trong thư trước rồi. Tôi viết cấp tốc thư vào theo địa chỉ nơi anh đang dừng chân. Nhưng, thư và người bặt tăm từ ngày ấy...
Từ hôm anh hành quân đến ngày kí Hiệp định Paris chỉ đâu hai tháng. Ngày anh ấy vào Nam, mưa phủ trắng trời. Không lâu sau đó, tôi hoang mang ghê gớm khi biết mình có thai. Việc khám thai, nạo bỏ thai nhi không như bây chừ. Anh ấy đi, chả ai có thể làm chứng là tôi đã có bầu với người chiến sĩ nên đành phải chịu bao tủi nhục. May, bố mẹ tôi hiểu chuyện và bao bọc con gái bằng tất cả sự yêu thương, che chắn bớt những lời xúc xiểm bên ngoài. Nhờ sự bao dung ấy, tôi mới sinh ra, nuôi được Mai cho đến ngày lon ton theo mẹ đi lấy chồng...
Tin miền Nam được giải phóng phát ra từ cái đài của ông chủ tịch xã làm xóm dưới làng trên kẻ cười, người khóc... Trong xã thêm nhiều chị em lỡ dở. Tôi thì qua bốn mùa xuân đến rồi đi, càng đợi, người ấy càng biệt tăm. Trước khi quyết định lấy một người diện xấu trai, cộc cằn, tôi khổ tâm ghê gớm. Sau chiến tranh, trai tráng lưa thưa, đến gái tân còn ế đầy ra, tôi không dễ tìm được người ưng mắt. Vả lại, mấy năm tôi chờ... đằng đẵng. Xã có thêm bảy liệt sĩ nữa”.
Tiếng nhạc ở quán kề bên réo rắt: “Lỡ mai anh chết em có buồn không...” làm người mẹ trẻ càng thêm u buồn. Gần trưa, hai người chào nhau. Câu chuyện cho tôi thấy ở làng Thung Mây, chị em phụ nữ thật tốt và thật khổ. Ngày giải phóng miền Nam, Mai hơn hai tuổi, rất là xinh. Ở làng quê, sắc đẹp nhiều khi cũng là nỗi bất hạnh. Hai mươi năm, thời gian thật lâu và cũng thật mau, Mai chịu cái tiếng là con hoang, đồ không có bố! Người mẹ nhìn ra đường cái, hai hố mắt rưng rưng. Tôi ra chợ. Từ hôm ấy, hình bóng Mai trở đi trở lại trong tôi. Cùng với những lúc nghĩ về Mai, thoảng bên tai tôi lời của người mẹ bất hạnh:
“Thầy giáo đến nhà cũng biết, ông chồng tôi thuộc dạng cũ người, còn bố ruột Mai thì đẹp như diễn viên. Mối tình của chúng tôi nói theo thời nay là... sét đánh. Hơn hai chục năm chưa gặp lại nhưng đến chừ, tôi đinh ninh anh ấy đã hy sinh. Nếu không rứa thì ngày giải phóng miền Nam... đã về đây rồi. Chiến trường thì ác liệt. Bom đạn chẳng trừ ai. Tôi chờ đợi rồi hy vọng. Mấy năm trời một mình thui thủi cô đơn. Khi Mai được bốn tuổi, tôi gật đầu lấy một người ở làng bên để có tấm chồng.
Mong cho con riêng được chồng và nhà chồng thương yêu, tôi làm lụng sớm hôm, cày bừa, nhổ mạ, làm cỏ, bón phân; nhặt nhạnh từng mẩu khoai, miếng sắn nát để nuôi con. Con lại đông, sáu năm sòn sòn bốn đứa. Những vụ mất mùa, nhiều bữa đàn con đói đến vàng mắt, bơ phờ. Vô vàn bận tôi bỏ con khát sữa ở nhà đi làm đồng trong cái đói và lạnh run người, thắt lưng thì buốt nhói.
Xin lỗi vì nói chuyện buồn. Mới gần đây thôi, Mai có tâm sự với mẹ: ngày còn học ở trường, nó thầm yêu trộm nhớ thầy. Rồi nó đỏ mặt nói là, thầy thật gần và cũng... thật xa. Là học trò ở tuổi e ấp nên con dằn lòng giữ kín. Nó nói thêm: rất mê giọng giảng bài, giọng đọc thơ của thầy. Xa lớp rồi nhưng vì nhớ thời khóa biểu nên có vài lần đi chợ bán măng, em nó che kín mặt đi vào sau lớp đứng nghe thầy giảng. Khi sắp hết giờ vội thoăn thoắt bước đi. Tủi thân ghê lắm.
Thương con mà mẹ đành bó tay. Chồng thì cục tính, nát rượu, đánh chửi vợ và ghen khủng khiếp! Rồi cảnh nghèo, con đông, làng quê với nhiều lề thói mê muội càng làm cho ông ấy khư khư tật xấu. Đó cũng là cái thói của nhiều đàn ông trong làng. Nhìn cảnh ấy, Mai gạt nước mắt nhiều lần rồi quyết định thôi học...”. Bên ngoài trời rả rích mưa đêm.
Mấy ngày sau, mở cuốn sổ “tích lũy kiến thức” tôi thấy lá thư.
“Thung Mây ngày...
Thưa thầy! Lá thư này em xin phép được dán...
Thầy! Lần đầu và cũng là... lần cuối, em xin phép gọi người thầy yêu quý của mình bằng... anh! Em chỉ cho phép mình làm điều không phải với thầy một lần, một lần thôi trong cuộc đời này. Có thể thầy không vui, nhưng em chẳng thể làm khác điều trái tim xui mách.
Anh! Em rất buồn khi viết thư này! Hơn hai năm mà em còn tiếc nuối khi bỏ học. Buổi cuối cùng hôm ấy, em đến trường sớm hơn thường lệ. Không vào lớp, em bước tới dãy nhà giáo viên với suy nghĩ là nói với anh vài lời chia tay. Nhưng, bắt gặp anh và hai thầy nữa ăn sáng bằng nồi khoai luộc đang bốc hơi, em ngượng ngùng quay ra. Hôm ấy có hai tiết Văn. Trên bảng, anh vẫn say sưa giảng. Suốt buổi học, mắt em nhòe đi, cứ rưng rưng chực khóc khi một người mình rất mực yêu thương vừa gần ngay trước mắt nhưng cũng xa tận chân trời. Người ấy... Rồi, tim đập loạn cả lên. Một hồi trống vang lên, buổi học kết thúc, em không nói nổi với anh và các bạn lời tạm biệt mà lững thững bước trên sân trường khi trời bắt đầu có sương lạnh của ngày đầu mùa đông”.
Tay tôi run run khi cầm thư. Không ngờ mình có cô học trò xinh đẹp yêu thầy đến mức này. Hơn hai năm học, Mai lúc nào cũng bẽn lẽn, dịu dàng...
“Rời trường, em không còn là một nữ sinh xinh đẹp mà thành thôn nữ. Phía trước mặt không phải sách vở hay áng thơ bay bổng mà cái cày cái cuốc, nồi cám lợn, đít con trâu! Là con gái nhưng em chưa từng nghĩ đến mình phải đỏm dáng, làm đẹp. Nhưng, kì lạ, em vẫn thả hồn mộng mơ khi nhớ lại giọng anh đọc và bình thơ Nguyễn Bính: “Hôm nay dưới bến xuôi đò/ Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau/ Anh đi đấy, anh về đâu/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...”. Thơ hay, người bình sâu. Nhưng, em không bao giờ còn nghe lại nữa.
Công việc nhà nông buồn tẻ làm em rơi dần kiến thức từng học ở trường. Những bạn mới là đám trai các nơi rủ nhau đến nhà em canh cửa. Mặc họ nói lời yêu thương, em trơ lì như cây cột bờ rào vì hy vọng được một người như anh trân trọng, yêu thương...”.
Vậy là tôi có lỗi khi vô tình trước tình cảm chân thật của cô học trò nghèo khổ nhưng có một trái tim yêu thương thật lãng mạn, cháy bỏng. Phải yêu tôi mãnh liệt, em mới dám nói ra.
“Em thành người lớn trong nhà khi mái tóc mẹ và bố dượng bắt đầu điểm bạc. Có em ở nhà, mẹ cũng dần qua những ngày mồ hôi trộn lẫn nước mắt. Bố dượng giảm rượu chè, bớt mắng mỏ em và mẹ vô cớ. Ngày trước, ông thường mượn chén rượu mạt sát em là “đồ con hoang”. Mẹ chỉ im lặng và càng đảm đang hơn. Có người khuyên mẹ viết đơn tố cáo chồng. Nhưng, mẹ không, vì “xấu chàng hổ ai”. Mẹ nghĩ đến trong nhà nhiều việc luôn cần đến người đàn ông. Ông bà ngoại bắt đầu già. Anh em mỗi người mỗi phận...”.
Lòng tôi rưng rưng. Vậy là Mai còn khổ hơn mẹ em thời còn là con gái. Em đã sống chuỗi ngày thiếu tuổi thơ.
“Anh! Em biết một người như anh sẽ không dành chỗ, dù chỉ là góc nhỏ để đặt hình bóng em vào trong tim mình. Ngoài chuyện anh là thầy giáo còn vì hai ta không thể chung con đường. Em không trách, chẳng dám trách anh. Lỗi là số phận của em. Giá mà thư của bố để lại hôm hành quân gấp vào chiến trường mẹ còn giữ được, biết đâu em có quê nội, có thể là con liệt sĩ.
Giá như không có chiến tranh thì em còn có bố, sẽ chẳng phải bỏ học giữa chừng, không phải sống những năm tháng bị hắt hủi, coi thường; chẳng phải mang cái bụng rỗng luồn rừng đi bộ hơn sáu cây số mỗi ngày ra phố.
Em cũng không phải lạnh đến thấu xương, người run lên bần bật khi thấy bố dượng nhìn xoáy vào em; hay chết khiếp bao lần khi ông dang cánh tay to bè tát thẳng vào khuôn mặt rất đẹp của mẹ! Giá như, bố trở về thì em không phải nhiều lần chịu cảnh nước mắt chan cơm! Còn mẹ thì nhẫn nhục chịu đựng... Hơn hai năm học ở cấp ba, những lúc gặp chuyện buồn, em lại mơ màng nghĩ đến... anh! Bước vào năm cuối cấp, em ngô nghê chờ đợi...”.
Nước mắt tôi cứ thể chảy xuống mặt. Sao tôi có thể tàn nhẫn, vô tâm đến thế? Sao tâm hồn lại rỗng đến vậy? Một thầy giáo dạy Văn mà cằn cỗi vậy ư?
“Anh! Đến giờ em vẫn nhớ những lần nghe anh đọc và bình thơ. Những áng thơ lay động ánh sao trời. Mỗi lần ấy, em như thấy tâm hồn mình tươi mới rạo rực. Thơ hay còn giọng của thầy thì rất truyền cảm:“Mẹ ơi lau nước mắt/ Làng ta giặc chạy rồi!/ Tre làng ta lại mọc/ Chuối vườn ta xanh chồi/ Trâu ta ra bãi, ra đồi/ Đồng ta lại hát hơn mười năm xưa...”. Cảm xúc sâu lắng quá đi! Mỗi bài giảng ấy vừa là kiến thức môn học vừa là hình hài quê hương, đất nước lắng đọng tự nghìn năm.
Trong khi các thầy cô thì nghèo, bữa ăn hằng ngày còn đạm bạc. Nhiều hôm anh lên lớp, bọn con gái tinh ý thấy thầy giáo của mình mặc quần vá vụng ở mông. Vậy mà anh và thầy cô vẫn dạy hết mình. Ánh mắt hiền như hạt lúa nhìn xuống học trò. Cái nhìn như hạt lúa ấy giúp học trò vượt qua đói nghèo, thất học. Chính từ cái nhìn ấy mà từ khi nào, em thấy thương và... thầm yêu anh, bất chấp thân phận của mình.
Ở làng Thung Mây, dưới chân núi Thung Sơn cao vời vợi, nơi đàn ông vẫn mang thói quen lên rừng săn thú và... uống rượu thâu đêm thì anh là thần tượng. Vì vậy, em cố nhét chữ vào cái bụng rỗng ấy để hôm nay đủ sức viết thư này cho anh, anh vô vàn yêu thương!”.
Ôi trời, Mai ơi, em thật giỏi giang và bất hạnh! Thật tiếc khi tôi không thể làm gì để giúp em...
“Anh! Em phải lấy chồng vì phận em nó vậy. Có thể không còn cơ hội để gặp lại nhau nhưng em vẫn còn thứ giữ lại. Đó là tập sách giáo khoa, cuốn vở ghi những bài giảng của anh. Đây là báu vật của em.
Không đủ sức để viết nhưng em cố vì trong đời chắc cũng chỉ viết một lần này thôi. Nó là tình yêu, nỗi tiếc nuối để ngày mai em về làm dâu một làng bên cánh rừng dưới chân núi Thung Sơn quanh năm mây mù bao phủ. Giá như được phép, em chạy đến bên anh cũng là người thầy yêu quý để được anh yêu, được cầm tay và hôn nhau lấy một lần. Giá em được mãi bên anh, suốt đời hầu hạ, nhìn anh bước ra từ cửa lớp... Nhưng, không, anh thương yêu, chuyện này là không thể!
Vậy nhá, mong anh luôn khỏe mạnh, yêu nghề và có thể thì nhớ đến cô học trò thầm yêu thầy! Em mong được như vậy, anh vô vàn yêu thương!”.
Thư vẫn còn nhưng tôi không dám đọc tiếp.
*
Ba mươi hai năm sau, tôi nhận sổ hưu.
Mai lấy chồng được một năm thì tôi chuyển về quê. Thời gian không làm cho tôi quên cô học trò nơi thâm sơn cùng cốc. Nhận được thư từ trường cũ tổ chức kỉ niệm bốn nhăm năm ngày thành lập, tôi vượt chặng đường dài lên thăm. Phố huyện thay áo mới, không còn tù mù ánh đèn dầu, lèo tèo quán xá. Công sở cao tầng, nhà dân xây đẹp. Lối đi lại đều đổ nhựa phẳng lì.
Còn thời gian, tôi tranh thủ về Thung Mây. Lối đi khúc khuỷu năm xưa thành đường bê tông, nắn thẳng. Hai bên nhiều nhà dân, chứ không vắng lặng như thuở nào. Tôi đang ngơ ngác thì gặp người học trò cũ.
“Bà Mến (mẹ của Mai) mất rồi. Ông chồng mới chết vì ung thư. Con của bà ấy ở làng bên, làm công nhân thôi. Chồng của Mai chết vì tai nạn lao động. Cô ấy ít về làng cũ”. Người học trò nói vậy. Tôi nhờ xe ôm đưa về Sóc Sơn, quê chồng Mai. Xe bon bon trên con đường rải nhựa.
“Cháu biết bà Mai, vì mấy lần chở con của bà từ phố về”, anh xe ôm nói. Tôi nhắc anh ta đi chậm để nhìn hai bên. Những cánh rừng âm u một thời đã biến mất, giờ là tít tắp đồi keo.
“Đây rồi. Để cháu xem bà Mai có nhà không. Anh xe ôm cất tiếng gọi”. Một người trong nhà bước ra.
Mai sững sờ hồi lâu rồi ngập ngừng chào thầy... chào anh. Em không già so với tuổi ngoài năm mươi dù một đời tất bật sấp ngửa lo toan. Mai còn giữ được nhiều nét xinh đẹp dù hơn ba chục năm vật đổi sao dời.
Bước vào nhà, việc đầu tiên tôi nhìn là bàn thờ có di ảnh người chồng Mai. Tôi lập cập thắp nén hương. Mai sụt sịt sau lưng. Đợi tôi thắp hương xong, em thầm thì: “Hồi nghe tin anh về xuôi, đang cấy dưới ruộng, không kìm được, nước mắt em chảy ra, rơi lộp bộp xuống bùn! Em cứ tưởng mình không còn thấy nhau...”.
“Hơn ba mươi năm, bao nhiêu mùa rẫy rồi, cuộc sống của thầy, à anh có ổn không? Chị ấy còn... khỏe không? Các cháu lập gia đình cả rồi chứ ạ?”.
Tôi vắn tắt những câu hỏi của Mai. Qua chuyện, tôi biết Mai đang ở cùng vợ chồng người con trai. Con trai, con dâu đang về quê vợ. Mỗi Mai ở nhà.
- Anh ngồi chơi, em chạy ù ra đầu làng mua chút thức ăn.
- Thôi, em xem có cái quán nào gần đây, tươm tất một tí. Già rồi ăn được mấy đâu -Tôi nói.
Mai bảo, quán ở trên xã tuềnh toàng. Tôi lấy điện thoại gọi, nửa tiếng sau, lái xe đưa hai người đến một nơi vừa có thể ăn và nghỉ ở ven suối, gần phố huyện. Món ăn ngon được bày ra, nhưng mắt Mai ậng nước. Qua em, tôi biết, mấy năm gần đây, Mai chịu nhiều mất mát. Một cơn mưa rừng ập đến. Trời lạnh. Hồi chiều Mai không đem áo ấm đi. Hai người buộc phải nghỉ lại. Lần đầu sau hơn ba chục năm, tôi cầm tay cô học trò, người từng yêu tôi đắm say. Mai thì thầm: “Em tưởng không bao giờ mình còn gặp lại nhau. Lấy chồng rồi, mà nhiều khi em còn tưởng tượng là có anh ngồi bên, được yêu chiều. Em hư lắm, phải không?”.
Mai lại khóc. Trời mưa rả rích. Gió rừng thổi xào xạc bên dòng suối róc rách. Đêm dần về khuya...
Cao nguyên Mộc Châu, 10/2024
Truyện ngắn của Trung Thực Lê