Người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh là người khai sáng, đặt nền móng và trực tiếp tham gia giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí Việt Nam. Nói như GS Đỗ Quang Hưng, Bác là “người khơi nguồn một dòng báo, một sự nghiệp”. Đó là dòng báo chí cách mạng và sự nghiệp báo chí cách mạng.
Sự ra đời của tờ Thanh Niên ngày 21/6/1925 không chỉ là một mốc son lịch sử, mà đã thể hiện năng lực tổ chức, năng lực làm báo bậc thầy của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tờ báo phát hành tổng cộng 208 số, mỗi số 400 - 500 bản, công nghệ in ấn thô sơ, trình bày còn đơn giản nhưng đã xứng đáng với vai trò là vũ khí tuyên truyền sắc bén của những người cộng sản Việt Nam. Đây là mốc đánh dấu sự chuyển biến từ phong trào yêu nước sang phong trào cộng sản của các tổ chức cách mạng trong nước, dưới sự chỉ đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Người đã khéo léo dùng tờ Thanh Niên để tuyên truyền, giác ngộ lý tưởng cộng sản trong tầng lớp thanh niên yêu nước.
Bác Hồ tự đánh máy các bài viết của mình tại chiến khu Việt Bắc. (Ảnh tư liệu).
Ảnh hưởng của những tờ báo do Bác Hồ sáng lập như Người cùng khổ, Thanh Niên… không chỉ có ý nghĩa trực tiếp trong việc chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc, mà còn khơi nguồn mạnh mẽ cho nền báo chí cách mạng nở rộ. Không phải ngẫu nhiên, những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam được Bác dìu dắt cũng là những nhà báo lớn như: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Xuân Thủy, Hồ Tùng Mậu…
Nhà nghiên cứu Đỗ Quang Hưng nhận xét: Báo Thanh Niên đã xác lập “một phong cách làm báo cách mạng rất Việt Nam” và “đặt ra cả nền móng có tính nguyên tắc cho sự ra đời và phát triển nền báo chí của nước Việt Nam mới”.
Người nghiêm khắc chống “nói dài, viết rỗng”
Một trong những bài học mà Bác thường nhắc lại nhiều lần là cần viết ngắn gọn, đừng muốn “viết bài cho oai” mà viết sao cho đồng bào hiểu. Người lý giải: “Hiện nay trình độ của đại đa số đồng bào ta không cho phép đọc dài, điều kiện giấy mực của ta không cho phép viết dài và in dài, thì giờ của ta người lính đánh giặc, người dân đi làm không cho phép xem lâu. Vì vậy nên viết ngắn chừng nào tốt chừng ấy”.
Bác nghiêm khắc phê bình lối “viết dài” và “viết rỗng”:
“Viết làm gì dài dòng và rỗng tuếch như thế? Chỉ có một cách trả lời: Là quyết không muốn cho quần chúng xem. Vì đã dài lại rỗng, quần chúng trông thấy đã lắc đầu, ai còn dám xem nữa? Kết quả chỉ để những ai vô công rỗi nghề xem, và người xem cũng mắc phải thói xấu như người viết”.
Khuyến khích viết ngắn nhưng Bác cũng quan niệm cái chính là chống “viết rỗng” bởi “không phải cái gì cũng ngắn mới tốt”:
“Thế những sách lý luận, hoặc cuốn này chẳng hạn, không dài sao?
Phải, nó dài nhưng mỗi câu, mỗi chữ có một mục đích, không phải rỗng tuếch.
Tục ngữ nói: “Đo bò làm chuồng, đo người may áo”. Bất kỳ làm việc gì cũng phải có chừng mực. Viết và nói cũng vậy. Chúng ta chống là chống nói dài, viết rỗng, chứ không phải nhất thiết cái gì cũng phải ngắn mới tốt”.
Người kết luận:
“Viết dài mà rỗng thì không tốt. Viết ngắn mà rỗng cũng không hay. Chúng ta phải chống tất cả những thói rỗng tuếch. Nhưng trước hết phải chống thói đã rỗng lại dài”.
“Viết ngắn”, hay “viết dài” suy cho cùng cũng là nhằm “viết hay”, “viết đúng” và “viết cho phù hợp”. Yêu cầu “nói ngắn, viết ngắn”, tránh “dây cà ra dây muống” của Bác có ảnh hưởng sâu sắc, góp phần làm cho ngôn ngữ báo chí và ở mức độ nào đó là tư duy ngôn ngữ Việt Nam trở nên giản dị, thiết thực, trong sáng hơn. Có những mệnh đề Bác nêu ra đã trở thành tinh thần của cả dân tộc, xét về nội dung lẫn hình thức: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí đó không bao giờ thay đổi”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”…
Người mẫu mực trong làm giàu tiếng Việt
Hồ Chí Minh yêu cầu “mỗi nhà báo phải biết ít nhất một ngoại ngữ” để học hỏi kinh nghiệm bè bạn, nhưng Người luôn đề cao tiếng Việt, có ý thức làm giàu tiếng Việt:
“Những chữ tiếng ta có thì không dùng, lại dùng cho được chữ kia. Cán bộ cũng hay dùng chữ lắm, dùng lung tung, nhiều khi không đúng”.
“Dùng cả đoạn chữ Hán, dùng từng đống danh từ lạ, nói hoặc viết theo cách Tây, mỗi câu dài dằng dặc thì quần chúng sao hiểu được?”.
Người nêu lên những ví dụ cụ thể của bệnh “hay nói chữ”:
“Vì sao không nói “đường to” mà lại nói “đại lộ”, không nói “người bắn giỏi” lại nói “xạ thủ” không nói “hát múa” lại nói “ca vũ”?”.
Người nhận xét:
“Tiếng Việt là một thứ của cải vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?”.
Người đề cao việc sử dụng tiếng Việt vì “tiếng Việt của ta rất phong phú, ta phải làm giàu thêm tiếng của ta, không nên vay mượn lu bù để lòe thiên hạ”. Người coi bệnh “hay nói chữ” là tàn dư của tư duy nô lệ, vọng ngoại vô lối. “Ngày xưa, ta còn bị thực dân cai trị, có những người không thạo tiếng mẹ đẻ, nói chẳng ai hiểu gì lại cho mình là trí thức cao. Bây giờ ta độc lập rồi, đừng nên bắt chước thói xấu của thời nô lệ”.
Tuy thế tư duy Hồ Chí Minh vẫn là tư duy “mở”, không rập khuôn bó hẹp trong một thứ “tinh thần dân tộc” hẹp hòi về ngôn ngữ: “Cố nhiên, có những chữ không thể dịch được thì ta phải mượn chữ nước ngoài. Thí dụ, những từ kinh tế, chính trị... thì ta phải dùng. Hoặc có những chữ nếu dịch ra thì mất cả ý nghĩa, như chữ “độc lập”. Nếu “Việt Nam độc lập” mà gọi là “Việt Nam đứng một” thì không thể nghe được”.
Vẫn là những từ gốc cũ nhưng qua cách nói, cách viết của Bác, tiếng Việt trở nên đa thanh, đa nghĩa, giàu sức biểu cảm. Những từ ngữ mang đậm tinh thần quốc tế vô sản cao cả: “các dân tộc anh em”, “các đảng bạn”, “các nước bầu bạn”...; những cụm từ biểu đạt nội dung mới của chế độ mới: “Con người mình vì mọi người”, “đồng bào công giáo kính Chúa, yêu nước”, “chiến sĩ miền Nam thành đồng Tổ quốc”...; đến những thói xấu cần loại bỏ: “Bệnh quan liêu”, “tệ lãng phí”, “nạn tham nhũng”, “thói mệnh lệnh”, “óc địa phương”… Hồ Chí Minh đã thể hiện một năng lực sử dụng ngôn ngữ bậc thầy!
100 năm kể từ ngày Báo Thanh Niên ra số đầu tiên. 100 năm nền báo chí cách mạng Việt Nam được Bác Hồ sáng lập. Dấu son tự hào ấy là điểm tựa để các thế hệ nhà báo không ngừng rèn luyện, vươn lên, làm tốt nhiệm vụ của mình, xứng với những lời chỉ dạy của Người Thầy vĩ đại: Nhà báo Hồ Chí Minh! Nói như đồng chí Trường Chinh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà báo cách mạng, là người thầy vĩ đại, là người sáng lập và dìu dắt nền báo chí cách mạng Việt Nam. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác đều gắn liền với công tác báo chí. Cho nên, Bác tự nhận mình là một người có nhiều duyên nợ với báo chí và những lời dạy của Bác về công tác báo chí là cả một kho tàng vô giá về lý luận báo chí cách mạng Việt Nam, thể hiện rõ đường lối báo chí vô sản của Đảng ta, khắc sâu trong tâm trí những người làm báo chúng ta”.
--------------------
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, NXB Sự thật, 1990.
2. Trần Văn Giàu: Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Sự thật, 1995.
3. Tạ Ngọc Tấn: Hồ Chí Minh – Về vấn đề báo chí, Tài liệu tham khảo, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, 1995.
4. Hà Minh Đức: Sự nghiệp báo chí và văn học của Hồ Chí Minh, NXB Giáo dục, 2000.
5. Đỗ Quang Hưng: Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh, NXB Lao động, 2001
PGS, TS Đỗ Chí Nghĩa