Nhà giáo nữ 'thắp lửa' STEM

Nhà giáo nữ 'thắp lửa' STEM
3 giờ trướcBài gốc
Cô Phạm Nguyễn Trang Ngân và học sinh Trường THPT A Lưới trong một buổi học STEM. Ảnh: NVCC
Vượt qua rào cản
Với cô Phạm Nguyễn Trang Ngân - giáo viên Trường THPT A Lưới (TP Huế), hành trình đến với STEM khởi nguồn từ niềm say mê vật lí và những câu hỏi hồn nhiên của học trò vùng cao. “Các em thường tò mò: “Tại sao kem lại đông lại?”, “Vì sao nồi cơm điện tự động ngắt?”... Tôi nhận ra, nếu chỉ dạy lý thuyết thì khó nuôi dưỡng được trí tò mò ấy, nên đã tìm đến STEM - nơi kết hợp kiến thức khoa học và đời sống thực tiễn”, cô Phạm Nguyễn Trang Ngân chia sẻ.
Khi bắt đầu, khó khăn lớn nhất của cô là thiếu thiết bị, thí nghiệm và tài liệu tiếng Việt phù hợp với học sinh dân tộc thiểu số; đôi khi là những ánh nhìn nghi ngại vì STEM thường được xem là lĩnh vực của nam giới. Nhưng chính ánh mắt háo hức, tinh thần ham học hỏi của học trò đã tiếp thêm cho nữ nhà giáo động lực để vượt qua rào cản.
Chia sẻ sản phẩm STEM tâm đắc, cô Trang Ngân kể về dự án tận dụng phế phẩm nông nghiệp ở địa phương (bã mía, vỏ chuối, vỏ dứa) để tạo giá thể trồng cây. Đây vừa là bài học về vật lí - hóa học - sinh học, vừa giải quyết vấn đề môi trường, lại gắn với sinh kế quen thuộc của gia đình học sinh.
“Tôi hạnh phúc khi thấy sản phẩm của mình mọc lên những cây xanh, học trò cười rạng rỡ và tin rằng khoa học thật sự gần gũi. Tôi nghĩ, giáo viên nữ có lợi thế ở sự kiên nhẫn, khả năng lắng nghe và thấu cảm học trò. Điều đó giúp tôi không chỉ dạy kiến thức, mà còn đồng hành cùng các em, tạo niềm tin rằng “ai cũng có thể làm khoa học””, cô Trang Ngân chia sẻ.
Cũng dạy học ở vùng khó, cô Huỳnh Thị Thúy Hằng - giáo viên Trường THCS Lưu Văn Mót (xã Quới Thiện, Vĩnh Long) đến với STEM bởi mong muốn học sinh không chỉ học kiến thức trong sách, mà còn biết vận dụng để khám phá, giải quyết những vấn đề thực tiễn. Dạy môn Khoa học tự nhiên, khi tiếp cận với giáo dục STEM, cô nhận ra đây chính là con đường giúp học sinh phát huy tư duy sáng tạo, khả năng hợp tác, đặc biệt là tinh thần tìm tòi nghiên cứu.
Quá trình này của cô Thúy Hằng không dễ dàng, bởi nguồn tài liệu về STEM còn ít, cơ sở vật chất và thiết bị thí nghiệm còn hạn chế, cùng với đó là định kiến về việc phụ nữ khó có thể theo đuổi lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật. Cân bằng giữa công việc chuyên môn, gia đình và thời gian dành cho các dự án STEM cũng là một thử thách.
Bên cạnh khó khăn, cô Thúy Hằng cho rằng, giáo viên nữ có lợi thế rất riêng khi làm STEM. Đó là sự tỉ mỉ, kiên nhẫn, khả năng quan sát tinh tế, giúp nhận ra những chi tiết nhỏ trong quá trình hướng dẫn học sinh.
Cô Lê Thị Hồng Xuân - Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ Dầu Một (TP Hồ Chí Minh) lớn lên với niềm đam mê khám phá tự nhiên, từ quan sát cách hạt nảy mầm trong vườn nhà, đến tò mò về chuyển động của các vì sao. Niềm yêu thích khoa học và toán học đã dẫn cô đến với nghề giáo, để có thể truyền cảm hứng cho sinh viên khám phá thế giới.
Định kiến rằng các môn STEM đòi hỏi sự cứng nhắc hoặc sức mạnh thể chất, vốn được cho là phù hợp với nam giới tạo áp lực lớn. Cân bằng giữa công việc giảng dạy, nghiên cứu phương pháp sư phạm và trách nhiệm gia đình cũng là một thử thách. Tuy nhiên, tình yêu với sinh viên và niềm tin vào giá trị của giáo dục STEM đã giúp cô Xuân vượt qua, từng bước khẳng định vai trò của mình trong lĩnh vực này.
“Tôi nhận thấy bản thân có lợi thế trong tạo ra những bài học STEM sinh động và gần gũi với sinh viên. Phụ nữ thường có sự tỉ mỉ, kiên nhẫn và khả năng kết nối cảm xúc, giúp thiết kế các hoạt động học tập khuyến khích học sinh tư duy sáng tạo, yêu thích khám phá.
Tôi cũng nhận thấy mình dễ dàng đồng cảm với những lo lắng của các nữ sinh khi tiếp cận các môn STEM, từ đó tạo ra môi trường học tập an toàn, nơi các em thoải mái đặt câu hỏi và thử nghiệm. Sự nhạy bén, khả năng truyền cảm hứng của giáo viên nữ giúp STEM trở nên dễ tiếp cận hơn, đặc biệt với những sinh viên từng nghĩ rằng các môn này quá khó hoặc không dành cho mình”, cô Xuân bày tỏ.
Tương tự, cô Nguyễn Thị Vân Anh - Khoa Công nghệ thông tin và Truyền thông, Trường Đại học CMC đến với STEM một cách rất tự nhiên, bắt đầu từ một ý tưởng nhỏ trong dự án cùng những người bạn chung niềm đam mê giáo dục cho trẻ. Khi bắt tay vào triển khai, khó khăn lớn nhất là thiếu thiết bị và chi phí cho các bộ kit thực hành; trong khi nhiều phụ huynh vẫn xem STEM như một hoạt động ngoại khóa nên mức đầu tư còn hạn chế.
“Có những lúc, chúng tôi phải tự chế tạo các dụng cụ để dạy và học, nên chuyện trục trặc kỹ thuật xảy ra là điều thường thấy. May mắn, tôi được sự đồng hành, hỗ trợ của những người bạn cùng chí hướng, giúp tạo ra môi trường và điều kiện tốt hơn để hoàn thiện các sản phẩm STEM cùng học sinh.
Ở góc nhìn cá nhân, tôi cho rằng nữ giáo viên trong lĩnh vực này không hề thua kém về kiến thức hay khả năng sáng tạo, thậm chí còn có lợi thế riêng nhờ sự kiên trì, tỉ mỉ và tinh tế trong cách tiếp cận học sinh và phát triển dự án”, cô Vân Anh tâm sự.
Cô Nguyễn Thị Vân Anh (Trường Đại học CMC) và học trò tại một lớp học STEM. Ảnh: NVCC
Tỷ lệ khiêm tốn
Trong môi trường giáo dục Việt Nam hiện nay, tỷ lệ giáo viên nữ trong các môn STEM đang dần tăng nhưng vẫn chưa cân bằng với nam giới. Theo quan sát của cô Lê Thị Hồng Xuân, khoảng 40% giáo viên dạy các môn khoa học, toán, và kỹ thuật ở phổ thông là nữ; nhưng con số này thấp hơn ở các trường đại học sư phạm, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật. Tuy nhiên, vai trò của giáo viên nữ trong giáo dục STEM ngày càng được khẳng định.
“Chúng tôi không chỉ truyền đạt kiến thức, mà còn đóng góp vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy; thiết kế các bài học tích hợp STEM; khuyến khích học sinh, đặc biệt học sinh nữ, theo đuổi các môn này. Giáo viên nữ thường mang đến cách tiếp cận sáng tạo, chú trọng phát triển kỹ năng tư duy và làm việc nhóm, giúp học sinh tiếp cận STEM một cách tự nhiên, hứng thú. Dù vậy, vẫn cần thêm các chính sách hỗ trợ để tăng cường sự hiện diện và ảnh hưởng của giáo viên nữ trong lĩnh vực này”, cô Xuân bày tỏ.
Cùng quan điểm, cô Huỳnh Thị Thúy Hằng cũng nhận định số giáo viên nữ tham gia giảng dạy và hướng dẫn STEM tăng dần, đặc biệt ở THCS, THPT. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn khiêm tốn so với nam giới, nhất là trong các dự án liên quan đến công nghệ, kỹ thuật hoặc lập trình.
Còn theo chia sẻ của cô Nguyễn Thị Vân Anh khi dạy các dự án STEM, lớp học thường chủ yếu là học sinh, sinh viên nam. “Tôi đặc biệt nhớ dự án “Xây dựng mô hình đo và đánh giá các chỉ số không khí tại khu chung cư” với nhóm học sinh THPT gồm 3 nam, 1 nữ.
Ban đầu, bạn nữ và phụ huynh đều khá lo lắng, băn khoăn. Nhưng sau 4 tháng đồng hành cùng nhóm, nữ sinh này không chỉ hoàn thành tốt phần việc kỹ thuật, mà còn thể hiện kỹ năng tổ chức, điều phối nhóm rất xuất sắc. Hiện, bạn đang theo học ngành Computer Science tại Mỹ”, cô Vân Anh kể lại.
Với lực lượng giáo viên nữ giảng dạy các môn khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), cô Vân Anh thừa nhận còn hạn chế, đặc biệt ở các cấp học cao hơn và các lĩnh vực chuyên ngành đòi hỏi kỹ thuật cao. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, con số này có chuyển biến; do chính sách, quan điểm xã hội có nhiều thay đổi. Đặc biệt, nhiều cô giáo đã đạt thành công nhất định khi theo đuổi con đường khoa học, công nghệ.
Tương tự, cô Phạm Nguyễn Trang Ngân đánh giá tỷ lệ giáo viên nữ dạy STEM chưa cao, nhưng ngày càng tăng lên. “Tôi mong rằng, giáo viên nữ sẽ được tiếp cận nhiều hơn các khóa tập huấn, sân chơi khoa học, nguồn học liệu bằng tiếng Việt. Đồng thời, cần có sự công nhận và động viên tinh thần từ xã hội, để chúng tôi không chỉ “trụ vững”, mà còn “tỏa sáng”, lan tỏa tình yêu khoa học cho học sinh, cộng đồng”, cô Trang Ngân mong mỏi.
Cô Huỳnh Thị Thúy Hằng và nhóm học sinh Trường THCS Lưu Văn Mót (xã Quới Thiện, Vĩnh Long) có dự án đoạt giải Nhì Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp tỉnh. Ảnh: NVCC
Để trụ vững và tỏa sáng
Từ thực tiễn, cô Lê Thị Hồng Xuân mong muốn các nhà giáo nữ được tạo điều kiện hỗ trợ cả về chuyên môn lẫn tinh thần. Điều này đòi hỏi xóa bỏ định kiến STEM chỉ phù hợp với nam giới; đồng thời cung cấp các chương trình đào tạo nâng cao về khoa học, kỹ thuật, phương pháp giảng dạy STEM dành cho giáo viên nữ.
Cô Xuân hy vọng, các nhà trường có những chính sách hỗ trợ để nhà giáo nữ cân bằng tốt hơn giữa công việc và cuộc sống gia đình; chẳng hạn như xây dựng lịch giảng dạy linh hoạt, hoặc giảm tải công việc hành chính. Việc hình thành mạng lưới kết nối giữa các nhà giáo nữ trong lĩnh vực STEM và lan tỏa câu chuyện thành công của họ cũng rất cần thiết.
Một số giải pháp khuyến khích nữ giáo viên, sinh viên tham gia STEM cũng được cô Xuân đề xuất. Trước hết, trường sư phạm nên cung cấp học bổng, chương trình đào tạo chuyên sâu về khoa học, toán học, kỹ thuật cho sinh viên nữ, giúp họ tự tin bước vào nghề.
Thứ hai, tổ chức các hoạt động ngoại khóa, như câu lạc bộ khoa học, hội thi sáng tạo kỹ thuật, ngày hội STEM dành riêng cho nữ sinh, để các em thấy rằng STEM là lĩnh vực thú vị, gần gũi. Thứ ba, truyền thông gương phụ nữ thành công trong STEM giúp thay đổi nhận thức, tạo động lực cho nữ sinh.
Cuối cùng, các chính sách hỗ trợ giáo viên nữ, như tài trợ nghiên cứu giáo dục STEM, cơ hội tham gia các hội thảo quốc tế, hoặc giảm tải công việc hành chính, sẽ giúp họ thêm thời gian để sáng tạo, cống hiến. Những giải pháp này cần triển khai từ cấp trường đến cấp quốc gia để tạo môi trường giáo dục STEM bình đẳng, hấp dẫn cho phụ nữ.
Cô Huỳnh Thị Thúy Hằng thì mong muốn các giáo viên nữ làm STEM được tạo điều kiện nhiều hơn về cơ sở vật chất, thời gian và cơ hội bồi dưỡng chuyên môn; có một cộng đồng để chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi, cùng lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo.
Các cấp quản lý, nhà trường tổ chức nhiều khóa tập huấn, hội thảo chuyên đề dành riêng cho nữ giáo viên, giúp họ tự tin và được cập nhật kiến thức mới. Xây dựng các câu lạc bộ STEM dành cho học sinh nữ, nơi các em có thể trải nghiệm, thử sức mà không bị e dè.
Tuyên dương, lan tỏa hình ảnh những phụ nữ thành công trong STEM; quan tâm chính sách khen thưởng, hỗ trợ kinh phí cho giáo viên hướng dẫn và học sinh tham gia dự án STEM. Khi có môi trường hỗ trợ và truyền cảm hứng đúng cách, chắc chắn sẽ có thêm nhiều cô giáo, học sinh nữ mạnh dạn theo đuổi đam mê STEM.
Từ thực tiễn Trường THPT A Lưới, cô Phạm Nguyễn Trang Ngân nêu ba giải pháp quan trọng như: Cần ưu tiên hỗ trợ thiết bị, học bổng, và quỹ nghiên cứu nhỏ cho giáo viên, học sinh nữ ở vùng khó khăn; tổ chức các chương trình “Nữ sinh với STEM”, mời diễn giả nữ trong lĩnh vực khoa học để các em có hình mẫu noi theo; kết nối cộng đồng với việc xây dựng mạng lưới giáo viên nữ STEM để chia sẻ sáng kiến, tài liệu và kinh nghiệm, giúp nhau bền bỉ tiến lên.
“Với các cô giáo chọn con đường STEM, chỉ cần được tạo điều kiện về phòng học, cơ sở vật chất, có sự đồng hành và ủng hộ từ phụ huynh, xã hội, chắc chắn họ sẽ làm nên điều khác biệt. Hiện có nhiều chương trình tăng cường đào tạo, hỗ trợ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về STEM cho giáo viên nữ, cũng như chính sách hỗ trợ để họ phát huy khả năng.
Tuy nhiên, cần tạo mạng lưới kết nối, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau giữa các giáo viên nữ làm STEM để họ cảm thấy tự tin, được trao quyền. Đồng thời, nâng cao nhận thức về vai trò của giáo viên nữ trong STEM, khuyến khích sự ủng hộ và tạo cơ hội cho họ phát triển”. - Cô Nguyễn Thị Vân Anh - Trường Đại học CMC
Hiếu Nguyễn
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/nha-giao-nu-thap-lua-stem-post753234.html