Nghệ nhân Ưu tú Quách Thuận Lương dù đã 92 tuổi nhưng vẫn còn nhiều trăn trở trong việc bảo tồn và giữ gìn nguồn gen của các cây thuốc quý.
Lương y và cây thuốc
92 tuổi và rất minh mẫn, đó là Nghệ nhân Ưu tú (NNƯT) Quách Thuận Lương, người thôn Mít, xã Xuân Bình, chuyên hành nghề lương y chữa bệnh cứu người bằng thuốc nam gia truyền.
Vừa giới thiệu với chúng tôi cuốn tự truyện “Miền ký ức” kể lại hành trình dòng họ Quách từ Hòa Bình đến khai khẩn vùng đất Xuân Bình từ giữa thế kỷ XIX, NNƯT Quách Thuận Lương vừa kể về nghề làm thuốc gia truyền. Ngay cả ông, một thầy giáo, nhưng lại có tình yêu đặc biệt với cây thuốc nam. Hơn 20 tuổi, từ khi nghe được thư Bác Hồ gửi cán bộ ngành y tế nhân Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2/1955, trong đó có nhấn mạnh Xây dựng nền y học nước nhà: Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “đông” và thuốc “tây”, ông đã mày mò, tìm hiểu về đặc tính, tác dụng của các cây thuốc trong rừng. Ông dành hẳn 6 năm từ 1961-1967, lăn lộn qua nhiều địa phương, nhiều cánh rừng để “nhặt” các bài thuốc dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Từ các bài thuốc đó, ông lại “cày” ở các thư viện để có thêm những kiến thức y học hiện đại.
Đó cũng là lý do mà sau khi rời ngành giáo dục với chức danh Phó Hiệu trưởng Trường THCS Xuân Bình, về nghỉ “hưu” nhưng ông vừa làm nghề thuốc vừa nghiên cứu để kết hợp giữa y học hiện đại và y học dân tộc. Năm 1986, ông quyết định ra Hà Nội, làm việc hợp đồng ở Viện Không quân, rồi Viện Điều dưỡng Bộ Nông nghiệp, đến năm 2005 trở về thành lập và làm Chủ tịch Hội Đông y Như Xuân. Với kiến thức tự học hỏi, ông Lương đã nghiên cứu thành công Đề tài “Cây cỏ lá rừng” chữa các bệnh như: thoát vị đĩa đệm, xương khớp, thần kinh... được Hội Y học Việt Nam công nhận.
Với phương pháp điều trị đông tây y kết hợp, trước khi bắt bệnh, cắt thuốc ông Lương đều yêu cầu bệnh nhân đưa hồ sơ bệnh án để có căn cứ khoa học. Hằng năm, ông Lương khám, chữa cho hàng nghìn người từ Nam ra Bắc khỏi bệnh, nhiều bệnh nhân qua cơn hiểm nghèo.
Không chỉ khám, chữa bệnh, ông Lương còn tạo việc làm thường xuyên cho 50 lao động tại địa phương với thu nhập trên 4 triệu đồng/tháng nhờ công việc trồng và chế biến các loại cây thuốc Nam. “Nhiều người hỏi tôi, tại sao không mua máy bào chế? Đầu tư 2 chiếc máy và sử dụng 4 lao động, nhanh hơn rất nhiều. Nhưng tôi vẫn mong muốn, ở nơi đất nghèo này, càng có thêm nhiều người có thu nhập ổn định hằng tháng, tôi càng vui".
Danh y Tuệ Tĩnh nói “Nam dược trị Nam nhân” là để khẳng định thuốc Nam chữa bệnh cho người Việt Nam, nhấn mạnh việc sử dụng các loại dược liệu có nguồn gốc từ Việt Nam phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và cơ địa của người Việt. Tuy nhiên, trước mắt ông, rừng nguyên sinh đã bị phá bỏ nhiều, các loại cây quý cũng đang dần mất đi, cơ sở Thảo lâm linh dược của ông đã phải nhập một số loại cây từ nước bạn về.
Không chỉ là cây thuốc, ông trăn trở nhiều về “lương y”. Trong số 6 người được ông truyền dạy, cuối cùng cũng chỉ có duy nhất con trai ông là theo đến cùng. “Nhớ từng chiếc lá, từng rễ cây đã khó, nhưng khó hơn hết vẫn là tâm sáng. Sự hội tụ giữa cái tâm của người làm thuốc và tri thức khoa học là điều cần thiết trong thời đại này”, ông Lương chia sẻ. Có lẽ vì thế mà ông là một trong những trường hợp hiếm hoi được phong tặng NNƯT trong lĩnh vực Bảo tồn văn hóa y dược của dân tộc Mường. Đặc biệt, nhân kỷ niệm 70 năm Bác Hồ lần đầu tiên về thăm tỉnh Thanh Hóa (1947-2017), ông Lương vinh dự được tôn vinh là công dân kiểu mẫu. Ông cũng là người có uy tín trong cộng đồng dân cư sinh sống tại xã Xuân Bình.
Lo sợ một ngày vắng tiếng cồng chiêng
7 tuổi đã tập đánh chiêng, với NNƯT Phạm Vũ Vượng, tiếng chiêng không chỉ là cầu nối đưa âm thanh đến với bản làng mà là linh hồn của người dân tộc Mường.
17 năm làm chủ nhiệm Câu lạc bộ (CLB) văn hóa dân gian dân tộc Mường huyện Ngọc Lặc, đối với ông Phạm Vũ Vượng đó là thời gian quý báu và đáng giá. Đáng giá không phải vì ông có được quyền lợi hay vật chất mà là tiếng cồng, tiếng chiêng, những câu hát ru, hát phường chúc, hát sắc bùa của đồng bào dân tộc Mường vẫn còn ngân vang.
Nghệ nhân Ưu tú Phạm Vũ Vượng chỉ dạy cho bà Phạm Thị Hòa đánh cồng chiêng.
Tính ra, từ năm 2008 đến nay, CLB đã sưu tầm được 20 bài hát ru; riêng ông sưu tầm được lý thuyết phường chúc, cồng chiêng. “CLB thuở ban đầu có 33 người, lúc cao điểm lên tới 72 người. Ông Vượng cho biết, chúng tôi có đủ thành phần từ kế toán, thủ quỹ và đội sưu tầm. Vì đây là CLB cấp huyện nên từ khi vận hành chính quyền địa phương 2 cấp, chúng tôi lại bơ vơ, vì huyện không còn, xã không nhận, các hội viên lâu lâu gặp nhau, đánh chống, đánh chiêng, hát ru cho vui”.
Hiếm có CLB nào như CLB văn hóa dân gian dân tộc Mường, huyện Ngọc Lặc bởi trong số hơn 10 Nghệ nhân Nhân dân (NNND), NNƯT là người dân tộc thiểu số thì CLB có 3 người, đó là NNND Phạm Thị Tắng và 2 NNƯT Phạm Vũ Vượng, Lê Thị Hương.
Lặn lội khắp các bản làng nơi miền Tây xứ Thanh, ông đi tìm từng chiếc cồng chiêng, lắng nghe từng câu chuyện của các già làng, trưởng bản. Có lần đi cả tuần, chỉ mang về được một chiếc chiêng nứt, vậy mà ông sung sướng, nâng niu như báu vật. Đến nay, ông đã có 30 chiếc cồng chiêng, 2 cái trống và 3 cái dàn. “Ngày xưa, bản nào cũng có cồng chiêng. Trẻ sinh ra, đánh chiêng mừng. Người mất, đánh chiêng tiễn. Cồng chiêng là tâm hồn, tiếng nói của người Mường, nhưng đã có lúc người ta lãng quên nó. Tôi không đành lòng nhìn hồn dân tộc lụi tàn...”, ông xúc động chia sẻ. Chẳng thế mà ai trong làng, trong xã cũng gọi NNƯT Phạm Vũ Vượng là “ông cồng chiêng”.
Trong căn nhà ở thôn Thuận Hòa, xã Thạch Lập ông đã treo những chiếc cồng chiêng. Có riêng bộ sưu tập cồng chiêng, không chỉ những đứa trẻ trong thôn mà rất nhiều người lớn tuổi ở các xã bên cạnh cùng tìm đến ông xin học, rồi mê lúc nào không hay. Bà Phạm Thị Hòa (xã Ngọc Lặc) dù không phải người Mường nhưng mê thanh âm của tiếng chiêng rộn vang trong những đêm hội làng mà tìm đến NNƯT Phạm Vũ Vượng theo học. Đến nay, trong nhà bà cũng có tới 18 cái cồng chiêng. “Cồng chiêng không chỉ là một loại nhạc cụ, đó là sự gửi gắm của văn hóa dân tộc, là tiếng lòng của đồng bào. Tôi lấy chồng rồi sống trên đất Mường, học cách tôn trọng giá trị dân tộc, cũng là học cách thương yêu mảnh đất này”. Câu nói của bà phần nào nhắc nhở chúng tôi về giá trị của di sản từ chính các nghệ nhân.
Những nghệ nhân như ông Vượng đã đi gần hết hành trình một đời người, một đời bảo tồn và trao truyền văn hóa dân tộc. Tiếp theo đó là những người như các bà Phạm Thị Hậu, Phạm Thị Hòa,... nhưng liệu tiếng chiêng có lặng dần nơi góc rừng Mường, những người trẻ có vì mưu sinh mà quên âm thanh quen thuộc.
Giờ đây, mong muốn lớn nhất của NNƯT Phạm Vũ Vượng và 32 hội viên CLB là tiếp tục được hoạt động và có thể đổi tên thành CLB văn hóa dân gian dân tộc Mường phía Tây tỉnh Thanh Hóa. “Cái tên đơn vị hành chính cấp huyện có thể mất đi, nhưng cộng đồng dân tộc Mường xứ Thanh rất đông, vì thế bảo tồn và phát triển văn hóa vừa là nghĩa vụ, vừa là tình yêu, là sợi dây níu giữ hồn cốt dân tộc”, ông Vượng khẳng định.
Bài và ảnh: Kiều Huyền