PGS.TS Lưu Đức Hải: 'Chúng ta đang khai khoáng một cách lãng phí'

PGS.TS Lưu Đức Hải: 'Chúng ta đang khai khoáng một cách lãng phí'
15 phút trướcBài gốc
Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành xu hướng tất yếu, các ngành sản xuất tại Việt Nam phải tìm hướng đi mới để giảm ô nhiễm và nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên. Khai khoáng - lĩnh vực tiêu tốn nhiều nguồn lực - đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải đổi mới mô hình phát triển.
Mới đây, trong Chương trình tập huấn về Kinh tế tuần hoàn thuộc khuôn khổ Dự án “Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp” do Viện Chính sách Kinh tế môi trường (Hội Kinh tế môi trường Việt Nam) phối hợp các cơ quan liên quan tổ chức, PGS.TS Lưu Đức Hải - Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam (nhiệm kỳ 2020-2025) - có bài tham luận với chủ đề “Áp dụng kinh tế tuần hoàn trong khai khoáng”.
Những chia sẻ này không chỉ đặt ra các vấn đề then chốt của ngành mà còn mở ra gợi ý về con đường phát triển bền vững cho doanh nghiệp trong giai đoạn mới.
Quang cảnh buổi Hội thảo.
Khoáng sản từ lâu được xem là nguồn lực đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia. Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024, tại Điều 2 khoản 13, định nghĩa khoáng sản là những khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên, tồn tại ở thể rắn, lỏng hoặc khí trong lòng đất và trên mặt đất, kể cả các khoáng vật nằm trong bãi thải của mỏ. Điều đó đồng nghĩa mọi vật chất được lấy ra từ mỏ, nếu được sử dụng phục vụ đời sống con người, đều được xem là khoáng sản. Ranh giới giữa khoáng sản và chất thải vì thế vô cùng mỏng manh, phụ thuộc vào trình độ công nghệ và nhu cầu thực tế của xã hội tại từng thời kỳ.
Khoáng sản mang tính lịch sử - xã hội rõ rệt: những gì trước đây bị xem là bỏ đi, khi công nghệ phát triển lại trở thành tài nguyên quý giá.
Theo PGS.TS Lưu Đức Hải: “Khoáng sản chỉ phụ thuộc vào hai thứ: trình độ khoa học - công nghệ và nhu cầu của con người. Tôi lấy ví dụ kinh điển về radium - thứ mà bà Marie Curie phải tách từ hàng nghìn tấn uranium thô để thu được vài gam kim loại. Đến khi thế giới phát hiện đặc tính phóng xạ mạnh, uranium mới thật sự có giá trị. Vì vậy, phần lớn khối lượng vật chất lấy lên từ mỏ ngày nay vẫn bị lãng phí. Chúng ta chỉ lấy được một phần rất nhỏ, còn lại đều bị bỏ đi, nhưng đó vẫn là khoáng sản”.
PGS.TS Lưu Đức Hải, Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam.
Tuy nhiên, hoạt động khai thác khoáng sản cũng để lại nhiều hệ lụy nặng nề. Địa hình tự nhiên bị biến dạng, những hố sâu lớn hình thành sau khai thác; nguồn nước mặn và nước ngầm bị tác động; chất thải rắn chứa kim loại nặng và bụi độc hại phát tán ra môi trường; thảm thực vật và hệ sinh thái bị tổn thương.
“Bởi chúng ta chỉ khai thác phần nhỏ có giá trị nhưng lại lấy đi toàn bộ khối lượng, nên tác động môi trường càng lớn. Vì vậy, phục hồi môi trường sau khai thác và áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành khoáng sản trở thành yêu cầu cấp thiết” - PGS.TS Lưu Đức Hải phân tích.
Theo ông Hải, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 nêu rõ Nhà nước có trách nhiệm xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bảo đảm tài nguyên khoáng sản được khai thác hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong hoạt động khoáng sản và chế biến khoáng sản. Đây là định hướng phù hợp với dòng chảy toàn cầu về phát triển bền vững.
Kinh tế tuần hoàn, theo Andrew Morlet (2015), là mô hình thiết kế đóng - nơi vật liệu và tài nguyên được tái sử dụng trong các chu trình liên hoàn, nhằm tối đa hóa giá trị và giảm thiểu phế thải ra môi trường. Ba nguyên tắc cốt lõi gồm: bảo tồn vốn tự nhiên, tối ưu hóa năng suất tài nguyên và thúc đẩy hiệu quả toàn hệ thống. Với ngành khai khoáng, các quy trình như sửa chữa, tái sử dụng, tân trang, tái sản xuất hay tái chế giúp biến “chất thải” trở lại thành “tài nguyên”, từ đó giảm đáng kể áp lực lên đất đai, nguồn nước và môi trường.
Tính cấp thiết của kinh tế tuần hoàn càng rõ rệt trong bối cảnh khai thác khoáng sản (nhất là than) đang tạo ra khối lượng chất thải khổng lồ, làm biến dạng địa hình, mất đất canh tác và gây ô nhiễm môi trường. Cùng lúc, các chiến lược quốc gia như Chiến lược tăng trưởng xanh 2021-2030, Quyết định 687/QĐ-TTg về phát triển kinh tế tuần hoàn đều khẳng định việc áp dụng các mô hình tuần hoàn trong khai khoáng là nhiệm vụ trọng tâm.
Trong lĩnh vực khai thác than, mô hình tuần hoàn mang lại nhiều lợi ích: giảm chi phí xây bãi thải, giảm chi phí kiểm soát ô nhiễm và phục hồi môi trường; tăng khả năng tận thu tài nguyên; tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng; giảm xung đột môi trường với cộng đồng địa phương. Về môi trường, các nguồn gây ô nhiễm được kiểm soát, bụi mịn than giảm đáng kể, đặc biệt tại các khu vực nhạy cảm như vịnh Hạ Long hay vịnh Bái Tử Long. Về xã hội, mô hình tạo thêm việc làm, hạn chế mất đất và góp phần ổn định sinh kế của người dân.
Tuy có hệ thống luật pháp tương đối đầy đủ và tiến bộ, nhưng việc thực thi pháp luật về khoáng sản tại Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. (Ảnh minh họa)
Trong khai thác và chế biến Bauxit (bô-xít) - alumin - nhôm tại Đắk Nông (cũ), mô hình kinh tế tuần hoàn càng trở nên quan trọng. Đây là ngành có lượng chất thải lớn: để có 1 tấn alumin cần khoảng 2 tấn quặng tinh và tạo ra tương ứng 1 tấn bùn đỏ, 2 tấn bùn đuôi quặng. Với sản lượng alumin theo quy hoạch lên tới hàng chục triệu tấn, áp lực môi trường là vô cùng lớn. Các chất thải như đất tầng thổ nhưỡng, sinh khối thực vật, bụi khai thác hay bùn đỏ nếu không được xử lý theo hướng tuần hoàn sẽ gây tác động dài hạn lên môi trường và xã hội địa phương.
Các giải pháp tuần hoàn trong ngành bô-xít bao gồm tái sử dụng nước tuyển quặng, chuyển đổi bùn đuôi quặng và bùn đỏ thành vật liệu xây dựng, cải tạo đất moong để tái canh tác nông nghiệp, phục hồi sinh thái, trồng rừng và hình thành các chuỗi giá trị mới dựa trên vật liệu tái tạo. Nhờ đó, chi phí xây hồ chứa bùn đỏ có thể giảm khoảng 200 tỷ đồng mỗi năm; giảm chi phí đền bù đất, chi phí phục hồi mỏ và tạo thêm nguồn thu từ việc chuyển giao quyền sử dụng đất sau phục hồi.
Không chỉ tiết kiệm chi phí, mô hình còn mở ra cơ hội lớn cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên vùng moong đã cải tạo, giúp người dân địa phương yên tâm sản xuất, không lo mất đất. Tài nguyên được tận dụng tối đa, môi trường được bảo vệ, còn cộng đồng dân cư được tăng cường sinh kế – đó chính là lợi ích kép của kinh tế tuần hoàn.
PGS.TS Lưu Đức Hải khẳng định: “Phục hồi môi trường là giải pháp dứt khoát trong khai thác khoáng sản. Và áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn cần được ưu tiên, bởi chúng ta phải lấy tối đa những sản phẩm có ích từ những gì trước đây bị coi là chất thải”.
Với trữ lượng bô-xít lớn hàng đầu thế giới, Tây Nguyên hoàn toàn có thể trở thành trung tâm công nghiệp alumin - nhôm phát triển bền vững, nếu mô hình kinh tế tuần hoàn được triển khai bài bản. Điều đó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, hoàn thiện chính sách và thực hiện thí điểm trước khi nhân rộng.
Các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm tại Chương trình.
Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong tất cả các ngành, trong đó có khai khoáng. Việc xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn cụ thể cho từng hoạt động không chỉ mang tính cấp thiết mà còn là giải pháp hiệu quả để phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường – hướng đi tất yếu cho một Việt Nam phát triển bền vững trong tương lai.
Từ đó, cơ hội việc làm tăng xung quanh mô hình kinh tế tuần hoàn, tác động tích cực và nâng cao đời sống của người dân địa phương.
Hà Chi
Nguồn Kinh tế Môi trường : https://kinhtemoitruong.vn/pgs-ts-luu-duc-hai-chung-ta-dang-khai-thac-khoang-san-mot-cach-lang-phi-103846.html