Để đạt mục tiêu đưa Việt Nam lọt vào nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo theo tinh thần Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, các trường đại học cần đổi mới chương trình đào tạo.
Nhiều cơ sở giáo dục đại học đã mở thêm ngành Trí tuệ nhân tạo (AI), đồng thời, các đơn vị cũng chú trọng phát triển hạ tầng nghiên cứu cũng như phòng thí nghiệm hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả cho công tác đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng AI.
Cơ sở giáo dục đại học phải là trung tâm đào tạo nhân tài, thúc đẩy nghiên cứu sáng tạo
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Vũ - Phó Trưởng khoa Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, Việt Nam đang có nhiều lợi thế trong việc phát triển và ứng dụng AI.
Hiện nay, nhu cầu ứng dụng AI đang ngày càng tăng mạnh trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: tài chính, y tế, giáo dục hay hành chính công. Việc phát triển và triển khai các giải pháp AI cũng góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số ở cơ quan, doanh nghiệp. Hơn nữa, Việt Nam cũng có nguồn nhân lực trẻ, năng động, có nền tảng STEM tốt, đây là yếu tố rất thuận lợi cho đào tạo nhân lực AI.
Tuy nhiên, lợi thế của Việt Nam trong lĩnh vực AI mới chỉ dừng lại ở mức tiềm năng. Bởi hệ sinh thái khởi nghiệp AI của Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế, chưa hình thành được sự gắn kết chặt chẽ giữa các bên như các nhà khởi nghiệp, nhà đầu tư, quỹ đầu tư, trường đại học, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Sự thiếu liên kết này khiến các tiềm năng hiện có chưa được phát huy đúng mức.
Vì vậy, để phát triển và bứt phá về trí tuệ nhân tạo, Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ hơn cho đào tạo và nghiên cứu, đặc biệt là bậc sau đại học. Đồng thời, tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng và các dự án nghiên cứu, ứng dụng thực tế. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trong đó các trường đại học phải đóng vai trò trung tâm, vừa là nơi đào tạo nhân lực, vừa là môi trường nghiên cứu và ươm tạo ý tưởng khởi nghiệp.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Vũ - Phó Trưởng khoa Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: tư liệu nhân vật cung cấp.
Đồng tình với ý kiến trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Trung Hiếu - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, với thị trường rộng lớn và việc chuyển đổi số đang được đầu tư mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, Việt Nam có thể tạo ra một kho dữ liệu phong phú và liên tục được mở rộng, làm bệ phóng quan trọng trong phát triển AI.
Cùng với đó, nguồn nhân lực trẻ của đất nước vừa có nền tảng kiến thức tốt, vừa năng động, có thể bắt kịp xu hướng công nghệ nhanh. Đây là nền tảng cốt lõi trong việc tiếp cận, nghiên cứu và triển khai các công nghệ AI hiện đại.
Tuy nhiên, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay cho thấy, Việt Nam cần cấp bách đầu tư vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực AI.
Trước hết là cập nhật chương trình đào tạo và đổi mới phương pháp đào tạo. Cụ thể, các cơ sở giáo dục đại học đào tạo về lĩnh vực công nghệ, trong đó có AI cần tập trung định hướng giảng dạy theo năng lực, tư duy sáng tạo, phát triển các năng lực cốt lõi của người học, bồi dưỡng tư duy hệ thống và khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn. Đồng thời, chú trọng kết nối doanh nghiệp và nhà trường, cập nhật chương trình gắn với nhu cầu thị trường và thúc đẩy học tập suốt đời. Nhà trường cũng cần chú trọng phát triển các chương trình đào tạo ngắn hạn, chứng chỉ nghề nghiệp và mô hình học tập dựa trên kỹ năng.
Thứ hai, tăng cường đầu tư hạ tầng và chính sách hỗ trợ nghiên cứu và đào tạo. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và các tổ chức tham gia đầu tư phát triển các dự án nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trí tuệ nhân tạo.
Thứ ba, cần có cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo điều kiện để thu hút và duy trì nguồn nhân lực chất lượng cao trong và ngoài nước. Ngoài ra, xây dựng môi trường phát triển nghề nghiệp minh bạch, bền vững. Từ đó, thúc đẩy tinh thần cống hiến, sáng tạo và gắn bó lâu dài của đội ngũ nhân lực trí thức trong hệ thống khoa học, công nghệ và giáo dục đại học.
Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Cần đẩy mạnh triển khai các chương trình liên kết đào tạo, trao đổi học thuật, hợp tác nghiên cứu giữa các cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu và doanh nghiệp quốc tế. Đây là nền tảng quan trọng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học công nghệ, có khả năng hội nhập và đóng góp hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Trung Hiếu - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website nhà trường.
Cần có chính sách thu hút đội ngũ trí thức và nhà khoa học uy tín trong lĩnh vực AI
Để hiện thực hóa mục tiêu đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, tập trung vào cả đào tạo, nghiên cứu lẫn kết nối doanh nghiệp.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Trung Hiếu, nhà trường đã cập nhật chương trình đào tạo, cải tiến phương pháp giảng dạy, trong đó người học được khuyến khích chủ động tiếp cận tri thức, phát triển năng lực sáng tạo và kỹ năng thực hành. Sinh viên được tạo điều kiện tham gia thực tập tại doanh nghiệp và các dự án thực tế, nhằm gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Bên cạnh việc đào tạo chuyên sâu cho sinh viên nhóm ngành Công nghệ thông tin, nhà trường đặc biệt chú trọng đến việc lan tỏa tri thức và cập nhật xu hướng công nghệ trí tuệ nhân tạo cho sinh viên của các ngành khác.
Nội dung nền tảng AI cũng như chuyển đổi số cũng được tích hợp vào tất cả các chương trình đào tạo của nhà trường, với mục tiêu giúp mọi sinh viên đều có khả năng hiểu biết, ứng dụng và khai thác hiệu quả trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Đây chính là bước đi quan trọng nhằm hình thành nguồn nhân lực liên ngành, có tư duy công nghệ và khả năng thích ứng cao, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Về phát triển hạ tầng nghiên cứu và phòng thí nghiệm, nhà trường đặc biệt chú trọng phát triển hệ thống phòng thí nghiệm, thực hành hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả cho công tác đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Cùng với đó, việc hợp tác quốc tế và liên kết doanh nghiệp cũng được trường chú trọng. Đây là một trong những trụ cột chiến lược nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số.
Chính sách của nhà trường luôn khuyến khích và tạo điều kiện để các đơn vị đào tạo tăng cường phối hợp với doanh nghiệp trong nhiều khâu của quá trình đào tạo, từ xây dựng, cập nhật chương trình học, đến tổ chức hội thảo chuyên đề, dự án học tập thực tế và chương trình thực tập nghề nghiệp.
Ngoài ra, nhà trường đang mở rộng các chương trình hợp tác đào tạo và nghiên cứu với các trường đại học, viện nghiên cứu cũng như tập đoàn công nghệ nước ngoài. Các hoạt động nổi bật gồm: chương trình liên kết đào tạo quốc tế, trao đổi giữa giảng viên, sinh viên, thực tập quốc tế và hợp tác trong các dự án nghiên cứu chung về trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu và chuyển đổi số.
Về phát triển ngành và chuyên ngành đào tạo mới, nhà trường định hướng mở rộng và cập nhật các lĩnh vực mũi nhọn gắn liền với chiến lược phát triển khoa học, công nghệ quốc gia. Các chuyên ngành IoT và Trí tuệ nhân tạo ứng dụng hay Khoa học dữ liệu đã được nhà trường triển khai từ trước năm 2020, nhằm đón đầu xu hướng phát triển của lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, phân tích và xử lý dữ liệu. Năm 2025, nhà trường tiếp tục mở thêm chuyên ngành Trí tuệ nhân tạo, Công nghệ tài chính, Digital Marketing nhằm góp phần hoàn thiện hệ sinh thái đào tạo về công nghệ số.
Sinh viên Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh thực hành trong phòng thí nghiệm. Ảnh website nhà trường.
Thầy Hiếu cũng nhấn mạnh, trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế, đội ngũ trí thức và các nhà khoa học đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy nghiên cứu, sáng tạo và ứng dụng AI. Để gia tăng số lượng và chất lượng đội ngũ này, cần có chính sách và cơ chế hỗ trợ, đãi ngộ lâu dài, nhằm thu hút nhà khoa học trẻ, cũng như chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài về đóng góp cho đất nước.
Song song với đó, việc xây dựng môi trường học thuật và nghiên cứu cởi mở, thúc đẩy tự do sáng tạo cần được chú trọng. Từ đó, giúp các nhà khoa học phát huy hết năng lực và được ghi nhận xứng đáng với những đóng góp cho nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, nên tăng cường liên kết viện - trường - doanh nghiệp nhằm hình thành mạng lưới nghiên cứu rộng khắp, giúp các nhà khoa học chia sẻ dữ liệu, tri thức, và tiếp cận nhu cầu cũng như xu hướng công nghệ tiên tiến.
Trong khi đó, theo thầy Nguyễn Văn Vũ, để góp phần đưa Việt Nam lọt vào nhóm 3 dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh xác định đào tạo và nghiên cứu AI là một trong những định hướng trọng tâm.
Về đào tạo, nhà trường là đơn vị đầu tiên trong Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh mở ngành Trí tuệ nhân tạo từ năm 2021, dựa trên nền tảng và kinh nghiệm lâu năm trong đào tạo, nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học máy tính và Công nghệ thông tin. Hiện nay, trường có gần 250 sinh viên đại học và hơn 160 học viên cao học, nghiên cứu sinh đang theo học trong ngành Trí tuệ nhân tạo. Ngoài ra, nhà trường cũng định hướng phát triển đào tạo và nghiên cứu kết hợp AI với các ngành như: Khoa học dữ liệu, Thiết kế vi mạch, Địa chất và Sinh học.
Về nghiên cứu, từ năm 2019, nhà trường đã đề xuất và triển khai đầu tư các phòng thí nghiệm hiện đại phục vụ đào tạo và nghiên cứu AI. Các phòng này được trang bị siêu máy tính GPU, máy chủ chuyên dụng và thiết bị phục vụ nghiên cứu về tương tác giữa người và máy móc hay an toàn và bảo mật thông tin.
Nhà trường cũng đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp cũng như các đối tác trong và ngoài nước với các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực AI cho y tế, sức khỏe và xử lý ngôn ngữ tự nhiên.
Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) xác định đào tạo và nghiên cứu AI là một trong những định hướng trọng tâm của nhà trường. Ảnh minh họa: Website nhà trường.
Thầy Vũ cũng cho rằng, để gia tăng số lượng đội ngũ trí thức và nhà khoa học uy tín, Việt Nam cần triển khai một cách đồng bộ nhiều giải pháp từ thu hút nhân tài, đào tạo chuyên sâu đến hoàn thiện cơ chế chính sách cho nghiên cứu.
Trong đó, cần có chính sách thu hút đội ngũ trí thức và nhà khoa học uy tín, có trình độ cao ở nước ngoài về công tác tại các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp công nghệ. Việc thu hút không chỉ dừng ở các nhà khoa học người Việt được đào tạo ở nước ngoài, mà còn cần mở rộng cho chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực AI, khoa học dữ liệu và những ngành liên quan.
Thực tế tại Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều năm qua nhà trường đã có nhiều giáo sư nước ngoài đồng hướng dẫn sinh viên và nghiên cứu sinh, qua đó giúp người học được tiếp cận chuẩn quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu.
Hơn nữa, việc đầu tư bài bản cho các chương trình đào tạo sau đại học, đặc biệt là tiến sĩ, nhằm xây dựng đội ngũ chuyên gia trong nước cần được chú trọng. Nhà nước nên có chính sách học bổng cho nghiên cứu sinh, thậm chí trả lương để đội ngũ này để họ có thể tập trung toàn thời gian cho nghiên cứu. Chính sách này cũng giúp thu hút người học xuất sắc theo học tiến sĩ trong nước thay vì đi du học.
Mặt khác, cần cải thiện cơ chế và chính sách đãi ngộ đối với nhà khoa học đang công tác tại các trường đại học, để đội ngũ này có thể tập trung nhiều hơn vào công tác đào tạo và nghiên cứu. Những nhà khoa học vừa là “người truyền lửa” cho thế hệ kế cận, vừa là lực lượng nòng cốt giúp sáng tạo giải pháp công nghệ mới. Chính sách miễn thuế thu nhập từ hoạt động nghiên cứu là một hướng đi đúng, song cần đi kèm với việc đơn giản hóa thủ tục hành chính trong nghiên cứu khoa học, giúp các nhà khoa học có thêm thời gian và điều kiện phát huy năng lực sáng tạo.
Mạnh Dũng