Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng dự thảo Thông tư quy định về cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng (thay thế Thông tư số 37/2024/TT-NHNN ngày 30/6/2024 quy định về cho vay đặc biệt). Thông tư này dự kiến có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2025.
Vay lãi suất 0% khi khách rút tiền hàng loạt
Theo quy định tại Luật số 96/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 có hiệu lực từ ngày 15/10 tới đây, sẽ điều chỉnh thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước đối với khoản vay lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm từ Thủ tướng Chính phủ thành Ngân hàng Nhà nước.
“Phao cứu sinh” cho vay đặc biệt 0%, ứng phó rút tiền hàng loạt trong 7 ngày. Ảnh minh họa.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước xây dựng dự thảo Thông tư thay thế để chỉnh sửa một cách hệ thống, rõ ràng các quy định hiện nay. Dự thảo Thông tư được xây dựng gồm 05 Chương, 38 Điều, 07 Phụ lục. Trong đó, tại Chương II, Ngân hàng Nhà nước cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt (11 Điều); tại Chương III, Ngân hàng Nhà nước cho vay đặc biệt để thực hiện phương án cơ cấu lại (09 Điều).
Điều 4 dự thảo Thông tư quy định rõ các trường hợp cho vay đặc biệt với tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước đưa ra hai phương án về phạm vi và đối tượng được vay đặc biệt.
Theo đó, phương án 01 chỉ giới hạn trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt và bị kiểm soát đặc biệt, nhằm chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Trong khi đó, phương án 02 mở rộng hơn, cho phép Ngân hàng Nhà nước cho vay đặc biệt không chỉ khi bị rút tiền hàng loạt, mà còn để để thực hiện phương án phục hồi, chuyển giao bắt buộc hoặc sau chuyển giao, áp dụng cho nhiều loại hình tổ chức tín dụng hơn, kể cả công ty tài chính, tổ chức tài chính vi mô.
Về thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư này, trừ quỹ tín dụng nhân dân. Còn Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực quyết định việc cho vay đặc biệt với quỹ tín dụng nhân dân đặt trụ sở chính trên địa bàn.
Cùng với đó, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức tín dụng khác cho vay đặc biệt trong các trường hợp cụ thể.
Tại Điều 11 dự thảo Thông tư, Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định số tiền cho vay đặc biệt trên cơ sở đề nghị của tổ chức tín dụng về nhu cầu chi trả tiền gửi cho người gửi tiền trong vòng 07 ngày. Quy định này được đề xuất sửa đổi so với trước đây, số tiền cho vay dựa trên tình hình khả năng chi trả của tổ chức tín dụng đề nghị vay đặc biệt. Ngân hàng Nhà nước đề nghị các đơn vị rà soát, có ý kiến đối với quy định này.
Về mục tiêu sử dụng tiền vay đặc biệt, ban soạn thảo đưa ra hai phương án. Phương án 1 chỉ cho vay đặc biệt với tổ chức tín dụng đã bị kiểm soát đặc biệt, dùng để chi trả tiền gửi cá nhân, còn chi trả cho tổ chức phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Phương án 2 mở rộng phạm vi, bổ sung trường hợp không bị kiểm soát đặc biệt cũng được vay để chi trả tiền gửi cá nhân, giúp ứng phó sớm nguy cơ rút tiền hàng loạt. Các quy định loại trừ về người có liên quan, lãnh đạo, cổ đông lớn và thời điểm xác định đối tượng giữ nguyên so với phương án 1.
Đáng chú ý, Điều 13 dự thảo quy định về lãi suất đối với nợ gốc cho vay đặc biệt, bao gồm nợ gốc trong hạn, nợ gốc được gia hạn thời hạn và nợ gốc quá hạn là 0%/năm; không áp dụng lãi suất đối với nợ lãi chậm trả, thay vì áp dụng lãi suất tái cấp vốn và phạt 130% khi quá hạn như trước.
Hỗ trợ cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém
Tại Chương III, Ngân hàng Nhà nước đưa ra nhiều quy định về cho vay đặc biệt để thực hiện phương án cơ cấu lại.
Theo Điều 21 dự thảo, bên vay đặc biệt được sử dụng tiền vay đặc biệt để thực hiện hoạt động ngân hàng, hoạt động khác (bao gồm hoạt động chi trả tiền gửi, tiền vay cho tổ chức, cá nhân) theo quy định tại Giấy phép và phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc bên vay đặc biệt đã được phê duyệt.
Số tiền, thời hạn cho vay đặc biệt thực hiện theo phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc bên vay đặc biệt đã được phê duyệt.
Điều 23 dự thảo quy định về lãi suất cho vay đặc biệt để thực hiện phương án cơ cấu lại là 0%/năm. Lãi suất đối với nợ gốc cho vay đặc biệt quá hạn bằng lãi suất cho vay cầm cố của Ngân hàng Nhà nước tại ngày chuyển nợ quá hạn. Không áp dụng lãi suất đối với nợ lãi chậm trả. Theo đó, quy định mới giảm mạnh lãi suất cho vay đặc biệt xuống 0%/năm, thay vì áp dụng lãi suất cầm cố như trước. Với nợ quá hạn, thay vì bị phạt 130% lãi suất trong hạn, nay chỉ áp dụng mức lãi suất cầm cố tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.
Dự thảo cũng bổ sung Điều 25 về cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm. Theo đó, tổ chức tín dụng được vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm trong trường hợp phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc đã được phê duyệt có biện pháp hỗ trợ vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm từ Ngân hàng Nhà nước.
Điều kiện kèm theo là tại thời điểm đề nghị vay, tổ chức tín dụng chưa có Danh mục tài sản bảo đảm được tổ chức tín dụng lập và Ban kiểm soát đặc biệt xác nhận theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 27 và Phụ lục IIIB.
Tại dự thảo cũng quy định rõ bên vay đặc biệt phải trả lại số tiền vay đặc biệt bị phát hiện sử dụng không đúng mục đích và số tiền lãi phát sinh trên số tiền vay đặc biệt, với mức lãi suất bằng lãi suất cho vay cầm cố của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, dự thảo đã giảm mức xử phạt lãi suất khi tổ chức tín dụng sử dụng vốn vay đặc biệt sai mục đích, thay vì bị tính 130% lãi suất cầm cố như trước.
Liên quan đến quy định về cho vay đặc biệt, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước từng khẳng định, cho vay đặc biệt chỉ áp dụng trong hai trường hợp, đó là tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt để chi trả cho người gửi tiền và thực hiện phương án phục hồi hoặc chuyển giao bắt buộc đối với tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt, sau khi đã sử dụng hết các biện pháp nghiệp vụ như tái cấp vốn, thị trường mở.
Đây là biện pháp cần thiết để ngăn chặn rút tiền hàng loạt, hạn chế rủi ro lan truyền và hỗ trợ tái cơ cấu hệ thống, được thực hiện từ nguồn tiền thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương về phát hành tiền, không sử dụng ngân sách nhà nước, nên lãi suất 0%/năm không gây rủi ro ngân sách./.
Ánh Tuyết