Phát triển chuỗi cung ứng nguyên liệu Halal trong nước

Phát triển chuỗi cung ứng nguyên liệu Halal trong nước
4 giờ trướcBài gốc
Thiết lập khung pháp lý thống nhất để minh bạch hóa
Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng dự thảo Nghị định quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal (dự thảo Nghị định).
Theo cơ quan soạn thảo, thị trường Halal toàn cầu có tiềm năng rất lớn xét về quy mô dân số Hồi giáo, với khoảng 1,94 tỷ người vào năm 2022, chiếm gần 1/4 dân số thế giới. Dân số Hồi giáo sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức trung bình 1,5%/năm và dự kiến sẽ đạt khoảng 2,8 tỷ người và năm 2050. Quy mô nền kinh tế Halal toàn cầu đạt 7.000 tỷ USD năm 2022 và dự kiến tăng lên khoảng 10.000 tỷ USD năm 2028, triển vọng tăng trưởng trong tương lai với tốc độ khoảng 6 - 8%/năm.
Tại Việt Nam, tính đến tháng 6/2023, có khoảng 90.000 tín đồ Hồi giáo, sinh sống tập trung ở 14 tỉnh, thành phố. Đã có 4 tổ chức Hồi giáo (Islam) được Nhà nước công nhận. Hiện, Việt Nam chỉ có khoảng 20 mặt hàng xuất khẩu ở thị trường Halal.
Thị trường Trung Đông rất ưa chuộng mặt hàng cá tra Việt Nam xuất khẩu đạt tiêu chuẩn Halal. Ảnh: Thảo Thương
Trước xu thế nhu cầu sử dụng, xuất khẩu các sản phẩm, dịch vụ Halal trên thế giới cũng như tại Việt Nam ngày càng gia tăng, Bộ Khoa học và Công nghệ xác định sản phẩm, dịch vụ Halal đang là xu hướng phát triển chung và sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới, do bảo đảm cung cấp được các sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe con người và cho xã hội.
Tuy vậy, Việt Nam hiện chưa có một khung pháp lý thống nhất và đồng bộ để quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và chứng nhận sản phẩm, dịch vụ theo tiêu chuẩn Halal; tạo ra những khó khăn, vướng mắc cho cả cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong việc phát triển ngành Halal, cũng như bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng. Do đó, “việc ban hành Nghị định quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal là hết sức cần thiết nhằm thiết lập cơ sở pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của ngành Halal tại Việt Nam”, cơ quan soạn thảo nêu.
Giám đốc Marketing, Văn phòng Chứng nhận Halal (HCA Việt Nam) Nguyễn Thị Ngọc Hằng bổ sung, Việt Nam hiện có rất nhiều sản phẩm phù hợp với yêu cầu Halal (như nông sản, thủy sản, thực phẩm chế biến…), nhưng phát triển mang tính tự phát, manh mún và thiếu một khung pháp lý chung. Điều này dẫn đến một số hệ quả, như: một số tổ chức chứng nhận Halal hoạt động tại Việt Nam chưa đăng ký với cơ quan có thẩm quyền trong nước, hoặc chưa được các cơ quan Halal quốc tế công nhận, khiến giấy chứng nhận không được chấp nhận ở nước nhập khẩu; một số doanh nghiệp chưa đạt chứng nhận Halal nhưng vẫn tự ý in logo Halal lên bao bì sản phẩm, gây thiếu minh bạch và mất niềm tin của người tiêu dùng, đồng thời ảnh hưởng đến hình ảnh hàng hóa Halal Việt Nam trên thị trường thế giới.
“Việc ban hành Nghị định sẽ thiết lập khung pháp lý thống nhất để quản lý chất lượng, kiểm soát và minh bạch hóa toàn bộ chuỗi sản phẩm, dịch vụ Halal; tạo sân chơi công bằng cho các doanh nghiệp và tổ chức chứng nhận Halal. Từ đó, nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bảo đảm rằng các sản phẩm gắn mác Halal thực sự đáp ứng yêu cầu theo chuẩn mực quốc tế; tăng cường vị thế và uy tín của sản phẩm Halal Việt Nam trên thị trường toàn cầu”, bà Hằng nói.
Nên áp dụng cơ chế đối ứng
Dự thảo Nghị định tập trung vào các nhóm vấn đề: yêu cầu chung đối với sản phẩm, dịch vụ Halal; ghi nhãn và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, dịch vụ Halal; thử nghiệm, chứng nhận đối với sản phẩm, dịch vụ Halal… Đáng chú ý, dự thảo quy định rõ về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, như: khuyến khích và chỉ đạo các tổ chức tín dụng, quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ xem xét, ưu tiên cung cấp tín dụng, bảo lãnh vay vốn với lãi suất hoặc điều kiện ưu đãi cho các dự án đầu tư dây chuyền, công nghệ sản xuất Halal; hỗ trợ truy xuất nguồn gốc sản phẩm Halal; hỗ trợ tổ chức chứng nhận, tổ chức thử nghiệm đầu tư trang thiết bị thử nghiệm chuyên sâu phục vụ yêu cầu Halal, xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế…
Nhìn nhận các chính sách hỗ trợ đã mang tính bao quát, với cả doanh nghiệp, tổ chức chứng nhận, tổ chức thử nghiệm, hợp tác xã, hộ kinh doanh, bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng đề xuất áp dụng cơ chế đối ứng: doanh nghiệp phải tự đầu tư và đạt được chứng nhận Halal trước (có chứng từ, bằng chứng), sau đó mới làm hồ sơ đề xuất xin hỗ trợ từ Nhà nước. Như vậy buộc doanh nghiệp nghiêm túc hơn trong việc xây dựng hệ thống quản lý Halal thực chất, thay vì chạy theo chính sách hỗ trợ; đồng thời bảo đảm ngân sách hỗ trợ đúng mục đích, đúng đối tượng và hiệu quả.
Song song, cần quan tâm phát triển chuỗi cung ứng nguyên liệu Halal trong nước, bởi thực tế, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm nguồn nguyên liệu nội địa, buộc phải nhập khẩu, làm tăng chi phí và ảnh hưởng đến tính chủ động của chuỗi cung ứng. Do đó, cần bổ sung chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu đạt chứng nhận Halal để hình thành hệ sinh thái nguyên liệu trong nước; kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất – doanh nghiệp nguyên liệu – hợp tác xã nông nghiệp để hình thành chuỗi cung ứng Halal bền vững; ưu tiên phát triển vùng nguyên liệu Halal (nông nghiệp, thủy sản, phụ gia…) ở các địa phương có điều kiện phù hợp.
Ngoài ra, một vấn đề lớn cần được quan tâm là phạm vi hoạt động của các tổ chức chứng nhận Halal nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, cơ quan quản lý cần quy định rõ ràng về phạm vi lãnh thổ được phép hoạt động của các tổ chức Halal nước ngoài, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế; đồng thời, có chính sách bảo vệ và thúc đẩy các tổ chức chứng nhận Halal của Việt Nam để dần nâng cao năng lực, đạt công nhận quốc tế và đóng vai trò lớn hơn trong hệ sinh thái Halal khu vực.
Đan Thanh
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/phat-trien-chuoi-cung-ung-nguyen-lieu-halal-trong-nuoc-10382046.html