Toàn cảnh Diễn đàn Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm 2025. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Nền tảng phát triển bền vững từ quản trị không gian biển và vốn tự nhiên xanh
Trong bối cảnh kinh tế biển giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển bền vững của Việt Nam, các ý kiến tại Diễn đàn Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm 2025 tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh vừa qua đã làm rõ những trụ cột then chốt trong phát triển một nền kinh tế biển hiện đại, bền vững trong thời kỳ mới.
Tại diễn đàn, Tiến sĩ Nico Barito, Đặc phái viên của Tổng thống Cộng hòa Seychelles tại ASEAN đã chia sẻ kinh nghiệm của Seychelles trong phát triển kinh tế biển xanh gắn với bảo tồn đại dương và phát huy giá trị vốn tự nhiên.
Theo ông, thông qua Quy hoạch không gian biển, Seychelles đã bảo vệ 32% diện tích đại dương của mình lên đến hơn 400.000km² vào năm 2020, đồng thời phân vùng không gian biển theo các mức độ bảo vệ và sử dụng khác nhau nhằm cân bằng giữa mục tiêu kinh tế và sinh thái.
Tiến sĩ Nico Barito, Đặc phái viên của Tổng thống Cộng hòa Seychelles tại ASEAN. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Seychelles cũng là quốc gia tiên phong phát hành trái phiếu xanh đại dương và triển khai mô hình hoán đổi nợ lấy khí hậu để tài trợ cho các dự án bảo tồn và phát triển bền vững.
Đặc biệt, khu vực Saya de Malha với diện tích khoảng 40.000km² mỗi năm hấp thụ ít nhất 18 triệu tấn khí thải carbon, trong khi tổng lượng phát thải của Seychelles chỉ khoảng 600.000 tấn.
Những cam kết mạnh mẽ về thiên nhiên và đại dương đã đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng GDP và đưa Seychelles trở thành một quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Từ góc độ trong nước, Giáo sư, Tiến sĩ Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội lớn từ biển, song cũng đối mặt không ít thách thức trong quản trị không gian biển, nhất là trong bối cảnh sắp xếp, điều chỉnh đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.
Giáo sư, Tiến sĩ Mai Trọng Nhuận nêu rõ, việc mở rộng không gian quản lý ở cấp tỉnh cho phép tái cấu trúc quy hoạch ở tầm vĩ mô hơn, hình thành các vùng kinh tế biển trọng điểm, tăng cường điều phối liên vùng, giảm tính manh mún trong quản lý vùng bờ.
Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển hạ tầng cảng biển, logistics, năng lượng tái tạo ngoài khơi, du lịch biển và thủy sản xanh theo hướng hiện đại, bền vững.
Giáo sư, Tiến sĩ Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học quốc gia Hà Nội. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra nhiều thách thức. Nguy cơ “mạnh ai nấy làm” giữa các địa phương cũ trong tỉnh mới có thể dẫn tới đầu tư trùng lặp, lãng phí nguồn lực và chia cắt không gian kinh tế biển.
Việc bỏ cấp huyện tạo ra khoảng trống quản lý ở cơ sở, trong khi năng lực kỹ thuật, nhân lực và tài chính của cấp xã ven biển còn hạn chế. Bên cạnh đó là những thách thức ngày càng lớn về ô nhiễm môi trường, suy thoái hệ sinh thái, biến đổi khí hậu và thiên tai biển.
Từ đó, Giáo sư, Tiến sĩ Mai Trọng Nhuận nhấn mạnh yêu cầu thiết kế lại cơ chế giám sát, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, đi kèm với tăng cường vai trò cấp tỉnh và nâng cao năng lực cấp xã.
Cùng với đó, điều chỉnh lại quy hoạch không gian biển theo mô hình chính quyền 2 cấp phục vụ quản lý biển hiệu lực, hiệu quả; áp dụng đồng bộ các giải pháp về thể chế, chính sách, khoa học-công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực đổi mới sáng tạo biển…
Khơi dòng vốn cho điện gió ngoài khơi và công nghiệp nuôi biển
Ông Hoàng Thái Vĩnh, cán bộ quản lý chương trình về kinh tế tuần hoàn và biển của UNDP Việt Nam. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Dưới góc độ phân tích định lượng, ông Hoàng Thái Vĩnh, cán bộ quản lý chương trình về kinh tế tuần hoàn và biển của UNDP Việt Nam cho biết, kịch bản Kinh tế biển xanh cho Việt Nam cho thấy sự khác biệt rõ rệt so với kịch bản phát triển theo xu hướng cũ.
Theo đánh giá của UNDP, nếu phát triển theo kịch bản kinh tế biển xanh, GDP của Việt Nam từ các ngành kinh tế thuần biển đến năm 2030 có thể đạt khoảng 2,1 triệu tỷ đồng, cao hơn khoảng 600 nghìn tỷ đồng so với kịch bản cơ sở, tương đương hơn 25 tỷ USD.
Cùng với đó, thu nhập bình quân của lao động biển có thể tăng từ khoảng 163 triệu đồng/người/năm lên gần 290 triệu đồng/người/năm, nhờ nâng cao năng suất và chuyển dịch sang các mô hình phát triển bền vững.
Đại diện UNDP cũng nhấn mạnh vai trò của quy hoạch không gian biển, xây dựng nền tảng dữ liệu không gian đồng bộ và nâng cao năng lực quản trị biển để bảo đảm thực thi hiệu quả các chính sách.
Tiến sĩ Mark Hutchinson, Giám đốc khu vực châu Á, Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC). (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Ở lĩnh vực năng lượng, Tiến sĩ Mark Hutchinson, Giám đốc khu vực châu Á, Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) cho rằng, Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển điện gió ngoài khơi và thu hút dòng vốn quốc tế quy mô hàng chục tỷ USD. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều rủi ro khiến các tổ chức tài chính chưa sẵn sàng tài trợ theo hình thức dự án phi truy đòi, làm gia tăng chi phí vốn.
Theo ông Hutchinson, để thu hút tài chính quốc tế, Việt Nam cần có hợp đồng mua bán điện dài hạn được các ngân hàng chấp nhận, giá điện cạnh tranh, cơ chế chia sẻ rủi ro rõ ràng và minh bạch, đặc biệt liên quan lưới điện, cắt giảm công suất và điều chỉnh theo biến động tỷ giá.
Việc phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các nhà phát triển dự án được coi là điều kiện then chốt để giảm chi phí và thúc đẩy ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi phát triển bền vững.
Song song với năng lượng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam đề xuất phát triển các cụm công nghiệp nuôi biển nội địa như một hướng đi đột phá cho kinh tế biển.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Theo ông Dũng, chỉ cần sử dụng khoảng 0,1% diện tích vùng đặc quyền kinh tế, Việt Nam có thể đạt sản lượng khoảng 10 triệu tấn cá biển mỗi năm. Việc hình thành các cụm công nghiệp nuôi biển với hạ tầng đồng bộ, kết nối nuôi biển công nghiệp, chế biến, dịch vụ hậu cần và kinh tế tuần hoàn sẽ tạo ra sản lượng lớn, chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, đồng thời mở ra khả năng tích hợp với du lịch biển, điện gió và các ngành kinh tế biển khác.
Từ các phân tích trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình Chính phủ thống nhất chủ trương và lập Đề án phát triển hệ thống các cụm công nghiệp nuôi biển tại 21 tỉnh, thành phố ven biển.
Đồng thời, ưu tiên dành quỹ đất và quỹ mặt biển mời gọi doanh nghiệp xây dựng đề án đầu tư cụm công nghiệp nuôi biển thí điểm; rà soát, sửa đổi, ban hành mới các chính sách ưu đãi và hỗ trợ phát triển cụm công nghiệp nuôi biển về đầu tư, tài chính, bảo hiểm, khoa học công nghệ, đào tạo, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm nuôi biển.
Bên cạnh đó, cần xây dựng các quy chuẩn và tiêu chuẩn Việt Nam về cụm công nghiệp nuôi biển, quản lý môi trường khu vực nuôi biển, các định mức kinh tế kỹ thuật của cơ sở nuôi biển công nghiệp.
TRUNG HƯNG