'Quả ngọt' từ các nghị quyết phát triển kinh tế tư nhân

'Quả ngọt' từ các nghị quyết phát triển kinh tế tư nhân
5 giờ trướcBài gốc
Bà Phí Hương Nga, Trưởng ban Ban Thống kê công nghiệp và xây dựng (Cục Thống kê, Bộ Tài chính)
Trái với nhiều thời điểm trước đây, từ đầu năm đến nay, số doanh nghiệp gia nhập thị trường đã nhiều hơn số rút lui, thưa bà?
Số doanh nghiệp gia nhập thị trường nhiều hơn số rút lui đạt mức kỷ lục trong 7 tháng đầu năm. Có được kết quả này là nhờ sản xuất công nghiệp tiếp tục đà khởi sắc. Trong tháng 7/2025, Chỉ số Sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số này càng có ý nghĩa khi tăng trên nền cao của tháng 7/2024 (tăng hơn 11%).
Tháng 7/2025 cũng là tháng đầu tiên sau sáp nhập các tỉnh thành, IIP của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn đã tăng rất mạnh so với thời điểm trước khi sáp nhập (tháng 6/2025) như Vĩnh Long tăng 4,5%; Quảng Ngãi tăng 3,7%; Đồng Nai tăng 3,5%; TP.HCM tăng 3,4%...
Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong tháng 7, nên tính chung 7 tháng đầu năm nay, IIP tăng 8,6%, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 10,3% (cùng kỳ năm 2024 tăng 9,6%). Từ đầu năm đến nay, trong số 16 nhóm ngành công nghiệp trọng điểm, ngoại trừ ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên vẫn chưa thoát được đà suy giảm liên tục; ngành công nghiệp sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu bị giảm 4,9%, còn lại các ngành đều tăng trưởng.
Có những ngành tăng trưởng rất ấn tượng như chế biến thực phẩm tăng 10%; sản xuất trang phục tăng 14,5%; da và các sản phẩm tăng 15,4%; sản phẩm từ cao su và plastic tăng gần 17%; điện tử, máy tính, quang học tăng khoảng 8%... Cá biệt, ngành sản xuất, lắp ráp xe có động cơ tăng gần 30%, tivi tăng hơn tăng hơn 21%.
Trên thực tế, doanh nghiệp gia nhập thị trường chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sửa chữa ô tô, xe máy?
Dù số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm chưa đến 25% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động (còn lại là dịch vụ, thương mại), nhưng là động lực để doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ gia nhập và tái gia nhập thị trường.
Trong 7 tháng năm 2025, có 107.700 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và 66.300 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, nâng tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường đạt con số kỷ lục - khoảng 174.000 đơn vị, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2024. Trong cùng thời gian, có 144.400 doanh nghiệp rời khỏi thị trường, nên từ đầu năm đến nay, đã có thêm 29.600 doanh nghiệp hoạt động, trái với nhiều thời điểm trước đây, số doanh nghiệp rời khỏi thị trường lớn hơn số gia nhập, tái gia nhập.
“Làn sóng khởi nghiệp” là hệ quả tất yếu của các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân?
Mấy tháng gần đây chứng kiến sự bứt phá chưa từng có của cộng đồng doanh nghiệp, hộ kinh doanh, khí thế và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp lên cao hơn bao giờ hết. Đây là hệ quả tất yếu từ các chủ trương, chính sách, cơ chế được ban hành tại Nghị quyết 68/NQ-TW về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết 198/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết 138/NQ-CP và Nghị quyết 139/NQ-CP triển khai chủ trương, quan điểm của Đảng và Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất phát triển kinh tế - xã hội.
Làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp, hộ kinh doanh là dấu hiệu cho thấy, các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân đã bắt đầu đi vào cuộc sống, thực sự phát huy hiệu quả, thẩm thấu vào nền kinh tế, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp của đông đảo người dân Việt Nam.
Số lượng doanh nghiệp “rời khỏi cuộc chơi” cũng rất lớn. Bà giải thích thế nào về hiện tượng này?
Từ đầu năm đến nay, có khoảng 144.400 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Đây là con số rất đáng suy nghĩ từ nội tại nền kinh tế, dù trong số này, có 88.600 đơn vị (chiếm khoảng 61%) chỉ tạm ngừng kinh doanh có thời hạn để cơ cấu lại hoạt động.
Số doanh nghiệp ngừng, tạm ngừng hoạt động đã nói lên sức chống chịu của doanh nghiệp còn yếu, đặc biệt là những đơn vị nhỏ và siêu nhỏ. Nhiều doanh nghiệp không đủ năng lực tài chính, thiếu dự phòng rủi ro, dễ bị tổn thương trước biến động như chi phí đầu vào tăng, cầu tiêu dùng giảm, hoặc không thích ứng được trước sự thay đổi chính sách.
Số lượng doanh nghiệp rời khỏi thị trường rất lớn cho thấy, môi trường kinh doanh dù được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều rào cản, như thủ tục hành chính phức tạp, tiếp cận vốn khó khăn, chi phí thuê mặt bằng, logistics còn nặng nề. Những yếu tố này làm tăng gánh nặng vận hành, khiến doanh nghiệp dễ chùn bước.
Doanh nghiệp ngừng, tạm ngừng hoạt động còn nhiều hơn cả số doanh nghiệp thành lập mới (144.400 so với 107.700) phản ánh sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, ở cả thị trường nội địa lẫn xuất khẩu. Những doanh nghiệp chưa kịp đổi mới công nghệ, chuyển đổi số hoặc không có chiến lược dài hạn dễ bị đào thải khỏi “cuộc chơi”.
Trên thực tế, chỉ có khoảng 39% số doanh nghiệp “một đi không trở lại”, 61% chỉ tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, thưa bà?
Rất mừng là có khoảng 61% số doanh nghiệp chỉ tạm ngừng kinh doanh, hết thời hạn tạm ngừng, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động rất cao. Điều này phản ánh tâm lý thận trọng, chờ đợi của chủ doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chủ động tạm ngừng kinh doanh có thời hạn để chờ thị trường phục hồi, hoặc cơ hội kinh doanh rõ ràng hơn mới quay trở lại hoạt động.
Đây là xu hướng cho thấy, doanh nghiệp có sự tính toán, cân nhắc trong điều hành hoạt động kinh doanh để giảm thiểu rủi ro, nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quy mô và sức sống của nền kinh tế.
Hiện tượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng kinh doanh vẫn ở mức cao là dấu hiệu cảnh báo về những hạn chế trong năng lực nội tại của khu vực doanh nghiệp và các vấn đề tồn tại trong môi trường kinh doanh, cần được nhìn nhận nghiêm túc để có các giải pháp kịp thời và hiệu quả.
Bức tranh của doanh nghiệp cũng phản ánh hoạt động sản xuất công nghiệp phục hồi chưa vững chắc, dù tăng trưởng phục hồi, nhưng có dấu hiệu chậm và chưa đều. Một số ngành như điện tử, dệt, da giày, chế biến gỗ… vẫn ghi nhận tăng trưởng cao, nhưng bắt đầu có dấu hiệu hụt hơi do đơn hàng không tăng và cạnh tranh giá từ các quốc gia khác.
Hoạt động của doanh nghiệp cũng phản ánh thực tế tiêu dùng trong nước phục hồi chưa mạnh, còn tâm lý thận trọng. Người dân có xu hướng thay đổi thói quen tiêu dùng do lo ngại lạm phát, thu nhập phục hồi chưa ổn định. Chi tiêu dùng qua tổng mức bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng tuy tích cực, nhưng chưa đủ mạnh để tạo động lực lan tỏa tới toàn nền kinh tế.
Mạnh Bôn
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/qua-ngot-tu-cac-nghi-quyet-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-d357377.html