Sáng nay, 21/11, Tổ 15 gồm: Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ, Đắk Lắk đã thảo luận về dự án Luật Trí tuệ nhân tạo.
Lấy con người làm trung tâm trong xây dựng luật
Góp ý về dự án Luật Trí tuệ nhân tạo, đa số các đại biểu đều đồng tình về sự cần thiết phải ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo trong bối cảnh phát triển hội nhập hiện nay; các nội dung cơ bản phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Tuy nhiên, đây là dự án Luật mới, rất phức tạp, chuyên sâu, trong khi thời gian chuẩn bị gấp rút, tư liệu phục vụ cho việc xây dựng dự án Luật còn khó khăn, vì vậy, ĐBQH Đặng Bích Ngọc (Phú Thọ) đề nghị, ban soạn thảo tiếp tục rà soát các quy định của dự án Luật để phù hợp với các luật đã ban hành trước đây, tạo sự thống nhất, đồng bộ trong việc tổ chức thực hiện sau này.
ĐBQH Đặng Bích Ngọc (Phú Thọ) phát biểu. Ảnh: Lâm Hiển
Bên cạnh đó, việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong thời gian qua đã phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến bảo mật, mạo danh, giả lập giọng nói và khuôn mặt để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian số. Vì vậy, việc rà soát và ban hành các quy định nhằm điều chỉnh hoạt động bảo mật, bảo đảm quyền lợi của người dùng trong quá trình sử dụng là hết sức cần thiết. Đặc biệt, khi trong quá trình sử dụng xảy ra sai sót, không đáp ứng đúng nhu cầu của người dùng, thì trách nhiệm của bên cung cấp cũng như các quyền và lợi ích liên quan giữa các bên cần được quy định cụ thể trong dự án Luật. Điều này sẽ góp phần bảo đảm tính an toàn, bảo mật và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dùng trong bối cảnh hiện nay.
Theo ĐBQH Trần Văn Tiến (Phú Thọ), phạm vi điều chỉnh quy định của dự án Luật hiện rất rộng và nhiều hoạt động, trong khi đó, có những hoạt động mà nội hàm của dự án Luật chưa bao hàm, như: hoạt động nghiên cứu trí tuệ nhân tạo. Đồng thời có 1 số nội dung mà phạm vi điều chỉnh chưa bao quát được, như: đạo đức và trách nhiệm trong hoạt động trí tuệ nhân tạo; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt động trí tuệ nhân tạo. Do vậy, đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung để phù hợp với nội hàm của dự án Luật. Ngoài ra, cần nghiên cứu và bổ sung quy định về nội hàm của việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào Chương 4, bởi mặc dù Chương này đề cập đến vấn đề ứng dụng trí tuệ nhân tạo, nhưng hiện chưa làm rõ nội hàm của nội dung này.
ĐBQH Trần Văn Tiến (Phú Thọ) phát biểu. Ảnh: Lâm Hiển
Thống nhất quan điểm chỉ xây dựng Luật khung và quy định các nguyên tắc cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, giao cho Chính phủ ban hành các văn bản để quy định chi tiết, bảo đảm quản lý linh hoạt, hài hòa, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy phát triển, ĐBQH Đặng Bích Ngọc nhấn mạnh: Chúng ta phải xác định lấy con người làm trung tâm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, quyền riêng tư, an toàn, an ninh mạng và sự tương thích giữa luật này với các điều ước quốc tế có liên quan. Như vậy khi xây dựng dự án Luật sẽ vừa đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập, vừa bảo đảm hài hòa lợi ích, hướng đến mục tiêu cuối cùng là lấy con người làm trung tâm.
Đại biểu cũng đề nghị, trên cơ sở thực tiễn và yêu cầu phát triển, Chính phủ cần ban hành các văn bản dưới luật một cách rõ ràng, cụ thể, nhằm tạo điều kiện để quá trình triển khai được diễn ra thuận lợi, thống nhất và đồng thuận trong tổ chức thực hiện.
Tập trung các quy định nhằm kiểm soát hệ thống AI có rủi ro cao
Để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo (AI), đặc biệt là ứng dụng AI make in Việt Nam cần thiết phải có khung khổ cho hình thành, chia sẻ dữ liệu chất lượng cao; đồng thời, phải bảo đảm hạ tầng AI bao gồm là hạ tầng năng lượng, hạ tầng tính toán hiệu năng cao, nền tảng điện toán đám mây... Đây là những vấn đề đã được quy định ở các luật có liên quan, do đó, ĐBQH Nguyễn Thúy Anh (Phú Thọ) đề nghị, việc thiết kế luật cần tập trung vào những vấn đề quan trọng, cấp bách cần tháo gỡ ngay, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo mâu thuẫn để tạo thuận lợi tối đa trong hoạt động nghiên cứu, phát triển, triển khai ứng dụng AI và đáp ứng yêu cầu quản lý chặt chẽ đối với những lĩnh vực có yếu tố rủi ro cao.
ĐBQH Nguyễn Thúy Anh (Phú Thọ) phát biểu. Ảnh: Lâm Hiển
Ngoài ra, đại biểu cũng đề nghị nghiên cứu, rà soát kĩ nội dung của dự thảo Luật, bảo đảm không quy định lại các nội dung đã được quy định tại các luật đã ban hành, đặc biệt là Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và dự thảo Luật Chuyển đổi số (đang được trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ Mười). Cùng với đó, bảo đảm các cơ chế, chính sách ưu đãi, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo mâu thuẫn giữa quy định của hệ thống pháp luật.
Toàn cảnh thảo luận Tổ 15. Ảnh: Lâm Hiển
Mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện dự án Luật theo hướng tập trung vào các quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả đối với các hệ thống AI có rủi ro cao. Đối với các hệ thống AI có rủi ro trung bình, thấp hoặc AI đa dụng, cần hoàn thiện theo hướng cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động triển khai; đồng thời hỗ trợ chi phí tuân thủ, tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn, nguồn dữ liệu chất lượng cao và thúc đẩy chia sẻ kết quả nghiên cứu.
Đối với quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì quy định tại khoản 4, Điều 30 có nêu, trường hợp nhiều chủ thể cùng tham gia phát triển, cung cấp triển khai hoặc vận hành hệ thống trí tuệ nhân tạo thì phải liên đới bồi thường đối với thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra. Trách nhiệm bồi thường được xác định theo mức độ kiểm soát thực tế, khả năng dự báo và biện pháp quản lý rủi ro mà mỗi bên đã áp dụng. Đại biểu Nguyễn Thúy Anh đề nghị, cần nghiên cứu, đánh giá tính khả thi của việc xác định theo mức độ kiểm soát thực tế, khả năng dự báo của mỗi bên do các tiêu chí này hiện chưa rõ ràng, thiếu đánh giá.
Liên quan đến quy định về Quỹ phát triển AI quốc gia (Điều 23) cần nghiên cứu, rà soát rõ quy định này bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Theo đó, nhiệm vụ chi của Quỹ Tài chính nhà nước ngoài ngân sách không được trùng với nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước; đồng thời đánh giá kĩ tính phù hợp, khả thi trong thực tế của quy định Quỹ được áp dụng cơ chế tài chính đặc thù, phân bổ vốn linh hoạt theo tiến độ dự án không thuộc vào năm ngân sách được áp dụng trình tự, thủ tục xem xét quyền định, rút gọn đối với nhiệm vụ có tính chiến lược, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Ngoài ra, nghiên cứu tính toán nhu cầu chi của của Quỹ, khả năng huy động từ các nguồn thu, trên cơ sở đó có các chính sách phù hợp để quản lý, huy động, sử dụng nguồn vốn của Quỹ hiệu quả nhất.
Trần Tâm