Quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần bảo đảm quy trình minh bạch, cân bằng lợi ích quốc gia với quyền và lợi ích chính đáng của người dân

Quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần bảo đảm quy trình minh bạch, cân bằng lợi ích quốc gia với quyền và lợi ích chính đáng của người dân
2 giờ trướcBài gốc
Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà phát biểu trong phiên thảo luận tại hội trường Quốc hội, chiều 1/12.
Đại biểu cơ bản nhất trí về sự cần thiết, căn cứ pháp lý và bố cục, nội dung chính của dự thảo Nghị quyết. Đồng thời, tham gia góp ý một số nội dung để góp phần hoàn thiện dự thảo Nghị quyết bảo đảm tính khả thi, hiệu quả.
Cho ý kiến vào quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (Điều 3 dự thảo Nghị quyết), đại biểu Đỗ Thị Việt Hà cơ bản nhất trí với việc bổ sung tại khoản 3 quy định về điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với các trường hợp thu hồi đất; đồng thời việc quy định loại trừ như dự thảo Nghị quyết cũng sẽ bảo đảm thuận lợi, linh hoạt hơn cho quá trình thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công khẩn cấp, dự án khác mà được đa số người có đất thu hồi đồng thuận bàn giao mặt bằng trước, qua đó cũng tháo gỡ được khó khăn, rút ngắn thời gian thu hồi đất.
Để bảo đảm quy định này được đồng bộ, thống nhất với quy định hiện hành; khả thi trong quá trình tổ chức thi hành, đại biểu đề nghị: Tiếp tục rà soát, quy định các điều kiện cần phải chặt chẽ, khả thi; bảo đảm cân bằng được lợi ích quốc gia với quyền của người dân, bảo đảm quy trình công bằng, minh bạch và có cơ chế bồi thường, tái định cư thỏa đáng; quyền lợi chính đáng của người dân được tôn trọng; tránh việc có thể lạm dụng mục đích “lợi ích quốc gia, công cộng”.
Hiện có 2 quy định liên quan đến nội dung này, đó là: Khoản 15 Điều 4 Luật Đầu tư công và Khoản 3 Điều 82 Luật Đất đai. Do đó, đề nghị tiếp tục rà soát, nghiên cứu, làm rõ hơn nội dung loại trừ dự án đầu tư công khẩn cấp theo quy định của pháp luật về đầu tư công để bảo đảm không trùng chéo một phần với trường hợp thu hồi đất tại khoản 3 Điều 82 Luật Đất đai. Cần làm rõ hơn mối quan hệ giữa các trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng với việc thực hiện dự án đầu tư công khẩn cấp, vì tiêu chí xác định các loại dự án này đang có sự khác nhau.
Tại khoản 7, Điều 3 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất quy định tại điểm b khoản 2 Điều này, dự thảo Nghị quyết đưa ra 2 phương án. Đại biểu cho rằng nên quy định theo phương án 2, đó là: “Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với diện tích đất còn lại áp dụng như trường hợp Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 78, Điều 79 Luật Đất đai và điểm a, điểm c khoản 2 Điều này.
Trường hợp tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ được nhận theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tính trên một đơn vị diện tích đất thấp hơn trung bình của giá đất đã thỏa thuận thì người có đất thu hồi được nhận thêm số tiền còn thiếu so với mức trung bình đó.
Nhà đầu tư phải trả số tiền chênh lệch giữa số tiền tính theo mức trung bình của giá đất đã thỏa thuận và số tiền bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; số tiền chênh lệch này được tính vào chi phí đầu tư của dự án.”
Theo đại biểu, phương án 2 sẽ bảo đảm quyền lợi chính đáng của người có đất bị thu hồi trong trường hợp dự án đã thỏa thuận được trên 75% diện tích đất. Việc bổ sung cơ chế thanh toán phần chênh lệch giúp người dân nhận được mức bồi thường không thấp hơn mặt bằng giá đã thỏa thuận, bảo đảm sự công bằng, hạn chế khiếu nại và phù hợp với bản chất cơ chế tự thỏa thuận khi thu hồi phần diện tích còn lại. Phần chênh lệch do nhà đầu tư chi trả và được tính vào chi phí dự án, không làm tăng gánh nặng ngân sách.
Về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, tại khoản 8, Điều 4 dự thảo Nghị quyết quy định “Vi phạm pháp luật về đất đai và kết quả xử lý vi phạm của người sử dụng đất phải được công khai trên Cổng thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh, Bộ Nông nghiệp và Môi trường…”
Theo đó cho thấy dự thảo Nghị quyết quy định bắt buộc công khai tất cả vi phạm pháp luật về đất đai và kết quả xử lý, không phân loại mức độ vi phạm, và không có điều kiện về hậu quả cũng như mức độ ảnh hưởng.
Đại biểu cho biết, Điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Theo đó, chỉ yêu cầu công bố công khai trong một số lĩnh vực cụ thể và chỉ trong trường hợp vi phạm gây hậu quả lớn hoặc ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội.
Vì vậy, đại biểu cơ bản nhất trí với việc cần phải công khai hành vi vi phạm trong lĩnh vực đất đai, nhưng cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng như phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm của hành vi cần được công khai.
Việc cập nhật toàn bộ hành vi vi phạm nên được cập nhật trên hệ thống Cơ sở dữ liệu của cơ quan có thẩm quyền để phục vụ công tác quản lý; nhưng việc công khai hành vi vi phạm trên Cổng thông tin điện tử thì cần xác định tính chất, mức độ hành vi vi phạm để quy định phải công khai. Việc công khai bắt buộc đối với toàn bộ vi phạm pháp luật về đất đai cũng có thể tiềm ẩn nguy cơ lộ, lọt thông tin, ảnh hưởng đến quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân của người sử dụng đất. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng thêm quy định này để bảo đảm tính đồng bộ, khả thi, không ảnh hưởng đến quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân của người sử dụng đất. Đồng thời đề nghị nghiên cứu bổ sung cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân, quy định rõ phạm vi, điều kiện, thời hạn công khai và biện pháp bảo mật thông tin để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.
Vân Giang
Nguồn Bắc Ninh : https://baobacninhtv.vn/quy-dinh-ve-thu-hoi-dat-boi-thuong-ho-tro-tai-dinh-cu-can-bao-dam-quy-trinh-minh-bach-can-bang-loi-ich-quoc-gia-voi-quyen-va-loi-ich-chinh-dang-cua-nguoi-dan-postid432266.bbg