Rõ tầm của một thiên tài!

Rõ tầm của một thiên tài!
6 giờ trướcBài gốc
Nhìn rộng ra thế giới, để có một hệ hình mới, phải đợi cả trăm năm, thậm chí ngàn năm; kiến tạo nên một mô hình xã hội cùng hệ tư duy tiến bộ, khác biệt, phải là những vĩ nhân kiệt xuất, mang tầm ảnh hưởng thời đại.
Dưới ánh sáng của triết học liên văn hóa (The intercultural philosophy), thế giới đánh giá cao ý nghĩa cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam đã kế thừa, phát triển những tư tưởng lớn; hội tụ, kết tinh những thành tựu của các cuộc cách mạng trước đó, tập hợp được những trí thức tên tuổi để xây dựng một mô hình nhà nước dân chủ tiêu biểu. Hồ Chí Minh thực sự là một trí thức lớn của nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1946. Ảnh tư liệu
Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, mùa đông năm 1938, Nguyễn Ái Quốc đến Trung Quốc tìm cách về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Trong lần làm việc với Ban Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương (tại Côn Minh, Trung Quốc) và một số đồng chí lãnh đạo của Đảng từ trong nước sang (tháng 6-1940), Người đưa ra nhận định: Chủ nghĩa phát xít nhất định bị tiêu diệt, đây sẽ là thời cơ thuận lợi cho các dân tộc đứng lên tự giải phóng. Sau khi Pháp đầu hàng Đức, Người chỉ đạo: Đây là một cơ hội "rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”(1).
Mùa xuân 1941, Bác Hồ về Cao Bằng mở Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (khóa I), thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh. Để Mặt trận trở thành hạt nhân của cách mạng, có sức mạnh lôi cuốn, hấp dẫn, tập hợp được quần chúng, Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo các văn kiện (tuyên ngôn, chương trình, điều lệ) về Việt Minh. Năm 1941 và 1942, Người viết nhiều tác phẩm kêu gọi dân ta đoàn kết, tuyên truyền, cổ vũ mọi tầng lớp, giai cấp chờ thời cơ đứng lên đánh giặc cứu Tổ quốc. Đó là những tác phẩm văn vần dễ nhớ, dễ thuộc: Khuyên đồng bào mua Báo Việt Nam độc lập (năm 1941); Mười chính sách của Việt Minh (năm 1941); Dân cày (năm 1941); Phụ nữ (năm 1941); Trẻ con (năm 1941); Công nhân (năm 1941); Ca binh lính (năm 1941); Chúc năm mới (năm 1942); Ca đội tự vệ (năm 1942); Ca sợi chỉ (năm 1942); Hòn đá (năm 1942); Con cáo và tổ ong (năm 1942); Nhóm lửa (năm 1942); Bài ca du kích (năm 1942)... Về văn xuôi, ngoài những tác phẩm viết về cách đánh du kích, có tác phẩm Kính cáo đồng bào (tháng 6-1941) thể hiện rõ tư tưởng về giải phóng dân tộc: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”.
Bốn vấn đề cốt lõi của những tác phẩm trên như 4 cây cột của ngôi nhà cách mạng mà Hồ Chí Minh vừa là kiến trúc sư, vừa chỉ đạo thi công; “khởi công” từ tháng 6-1940, “khánh thành” ngày 2-9-1945. Một là mở mang dân trí: “Làm cho ta mở mắt mở tai/ Cho ta biết đó biết đây.../ Cho ta biết nước non ta là gì...” (Khuyên đồng bào mua Báo Việt Nam độc lập). Hai là vấn đề tổ chức-nhân tố mang tính quyết định: “Muốn biết tự do chầy hay chóng/ Thì xem tổ chức khắp hay không.../ Tổ chức tuyên truyền càng rộng rãi/ Tức là cách mệnh chóng thành công” (Chơi giăng). Mặt trận Việt Minh là người xứng đáng nhất để lãnh đạo: “Chúng ta có hội Việt Minh/ Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh” (Mười chính sách của Việt Minh). Ba là vấn đề đoàn kết, hầu như tác phẩm nào được viết trong những năm này, Người cũng đề cập đến tinh thần đoàn kết. Hai chữ kết đoàn, đoàn kết được nhắc đi nhắc lại để nhấn mạnh nguyên nhân chính của thành công: “Chúng ta phải biết kết đoàn/ Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh...”. Bốn là, phải có lực lượng để tổ chức một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện: “Già nào/ Trẻ nào.../ Kẻ có súng dùng súng/ Kẻ có dao dùng dao/ Kẻ có cuốc dùng cuốc...” (Bài ca du kích).
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám là kết quả của một nhãn quan chính trị thiên tài tiên liệu những công việc lớn lao, kết quả của sự chuẩn bị rất cơ bản, cực kỳ chu đáo, khoa học của Đảng ta, đứng đầu là Bác Hồ kính yêu ngay từ đầu những năm 40 của thế kỷ 20, khi mà cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai mới bắt đầu. Giữa bao la biển lớn lịch sử, người cầm lái Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh vừa có cái nhìn vượt thời đại, mang tính toàn cầu, dự báo chính xác "thời tiết" chính trị, vừa thông tỏ các luồng lạch thời thế và thực sự bản lĩnh để đưa con tàu cách mạng Việt Nam cập bến độc lập. Điều này bác bỏ một số luận điểm phản động, “phủ nhận sạch trơn”, hàm hồ cho rằng “Cách mạng Tháng Tám thành công là ăn may”!
Khi cuộc thế chiến lần thứ hai chuyển biến có lợi cho Đồng minh, Bác Hồ xác định nhiệm vụ cho cách mạng nước ta: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”(2). Đáp ứng yêu cầu tất yếu của lịch sử, Người ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, “là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”(3). Nhật đảo chính Pháp (ngày 9-3-1945), cuối tháng 5-1945, Người về Tân Trào chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Mùa thu 1945, thế thắng đã nghiêng hẳn về Đồng minh, Người ra chỉ thị thành lập Khu giải phóng và cử ra Ủy ban cách mạng(4). Tháng 8-1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Người cùng Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc của Đảng (từ ngày 13 đến 15-8) và sau đó ngày 16, 17-8, Quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào. Câu nói của Người với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(5), ngoài thể hiện một bản lĩnh, ý chí, quyết tâm cháy bỏng, còn là tầm nhìn bao quát đại cục cả thế giới. Đó là trí tuệ vĩ đại biết tạo ra, chờ đợi và chớp cơ hội ngàn năm có một.
Cả nước một lòng theo lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đứng dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Hình ảnh ngày 2-9-1945, cả đất nước tràn ngập cờ sao thắng lợi được Tố Hữu tái hiện rất hay, sống động trong kiệt tác Theo chân Bác, với các ý nghĩa: Cách mạng Tháng Tám là biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước, yêu hòa bình, tự do (Hôm nay sáng mồng hai tháng chín/ Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình); Đất nước tự do tuyệt đối nên không gian không hề có vật cản (Trời bỗng xanh hơn, nắng chói lòa); vừa là lãnh tụ, Bác cũng vừa là đồng bào, đồng chí. Tất cả bình đẳng, hòa nhập (Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta); Việt Nam trở thành biểu tượng chiến thắng chủ nghĩa thực dân để thế giới chiêm ngưỡng, kính phục (Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó). Rõ ràng sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám gắn liền với tầm nhìn chiến lược, đi trước thời đại, tư duy chủ động, sáng tạo, kịp thời, luôn sát hợp với thực tiễn tình hình thế giới và cách mạng trong nước của Bác Hồ và Đảng ta.
Với dã tâm độc ác và hèn hạ, kẻ thù không chịu chấp nhận một đất nước yêu hòa bình có hòa bình. Ngày 9-9-1945, hàng vạn quân Tưởng nhem nhuốc, đói khát tràn vào Hà Nội. Ngày 24-10, bọn Việt Quốc, Việt Cách dựa vào quân Tưởng bắt cóc nhân viên Chính phủ ta. Ở miền Nam, dựa vào quân Anh, thực dân Pháp trở lại xâm lược. Đúng là tình huống “thù trong giặc ngoài”, “ngàn cân treo sợi tóc”!
Hẳn nhiên nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng được Bác Hồ và Đảng ưu tiên tập trung giải quyết cùng những đối sách sáng suốt, mềm dẻo nhưng kiên quyết. Từ ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Bác Hồ đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách: Chống giặc đói; chống giặc dốt; tổ chức tổng tuyển cử; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò và cấm thuốc phiện; thực hiện tự do tín ngưỡng. Đầu thế kỷ 21, từ điểm nhìn “Quyền con người”, nhiều nghiên cứu trên thế giới về Việt Nam ngạc nhiên, vì trong hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo ấy mà Hồ Chí Minh vẫn chú ý hai nhiệm vụ diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Đó là cách giải quyết hợp lý nhất để cố gắng mang hạnh phúc cho dân. Dân đói, dân dốt là nỗi bất hạnh của bất cứ quốc gia nào, và ngược lại. Chỉ có những trí thức lớn như Bác Hồ mới sâu đậm một tinh thần nhân văn cao cả, thể hiện tầm trí tuệ hiếm thấy trên cơ sở một tình yêu nước, vì dân và đặc biệt coi trọng tri thức. Ở thời công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) hôm nay, để đi vào ngôi nhà hạnh phúc, mọi quốc gia đều phải mở đồng thời hai cánh cửa: Lương thực và tri thức. Muốn có lương thực (miếng ăn) phải lao động. Muốn có tri thức (học vấn) phải học tập. Đó là chân lý phổ quát của lịch sử nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh mang tầm thời đại là vậy.
Từ ngày 17 đến 24-9-1945, Chính phủ tổ chức “Tuần lễ vàng”. Nghe lời Bác Hồ kêu gọi, nhân dân hồ hởi quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương và 370kg vàng. Tiền, vàng lúc này rất quý. Nhưng lớn lao hơn tiền, vàng là niềm tin của nhân dân với chính thể mới. “Thuận vợ thuận chồng, bể Đông tát cạn”. Đảng và dân đã đồng chữ “thuận”, mọi khó khăn đều vượt qua. Theo đề nghị của Bác, tháng 11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật. Ngày 6-1-1946, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I diễn ra được toàn dân tham gia (89% cử tri đi bầu). Kỳ họp đầu tiên, Quốc hội công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu. Kỳ họp thứ hai thông qua Hiến pháp năm 1946. Ngày 6-3-1946, Hiệp định Sơ bộ ký kết, ta đồng ý quân Pháp thay thế quân Tưởng, bọn phản động mất chỗ dựa. Kẻ thù dần được loại bỏ. Ngày 31-5-1946, với tư cách thượng khách, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm Pháp, tạo ra bước ngoặt cách mạng mới...
Cho đến cuối thế kỷ 20, nhiều đất nước còn chịu ách áp bức bởi chủ nghĩa thực dân cũ và mới đã ví Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam như mặt trời, như tấm gương lịch sử soi vào thực tế nước họ, mở ra những con đường đấu tranh, đổi mới ý nghĩa, thiết thực và hiệu quả.
Soi vào kỷ nguyên vươn mình ở đất nước ta hôm nay, mở ra bài học gì?
Một, vững vàng và kiên định, tin tưởng và tự hào tư tưởng Hồ Chí Minh là “kim chỉ nam” dẫn đường, chỉ lối cho hôm nay và mai sau. Tuyệt đối coi sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi. Trong bối cảnh mới, thời đại 4.0, Đảng cần phát huy vai trò lãnh đạo, không ngừng đổi mới phương thức cầm quyền, gần dân, vì dân.
Hai, phát huy cao nhất sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc. Để “vươn mình” cất cánh bay, Việt Nam phải có điểm tựa nền tảng là tinh thần toàn dân đoàn kết. Đảng và dân là một, đồng lòng, quyết chí.
Ba, nắm vững thời cơ, loại trừ nguy cơ. Thế giới sẽ ngày càng biến động khó lường, thời cơ đi liền nguy cơ, đòi hỏi sự tỉnh táo, biết rõ mình, biết kỹ người để trao đổi, ký kết...
Bốn, tự lực, tự cường, phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực. Cách mạng Tháng Tám thành công hầu như tự “ta”. Hôm nay càng phải vững chắc trên nền móng độc lập, tự chủ để xây ngôi nhà hội nhập đa dạng, sâu rộng. Không lệ thuộc, càng không phụ thuộc.
Năm, khơi dậy khát vọng hùng cường. Cách mạng Tháng Tám hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do làm tiền đề, điểm tựa cho khát vọng hùng cường hôm nay: Xây dựng đất nước “trở nên tươi đẹp”, “sánh vai với các cường quốc năm châu” để thỏa lòng mong muốn của Bác Hồ.
PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ
----------------------
(1). Đầu nguồn (1975), NXB Văn học, tr 234. (2), (3). Hồ Chí Minh, toàn tập (2002), NXB Chính trị Quốc gia, tập 3, tr 505, 506, 508. (4). Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam (2005), NXB Chính trị Quốc gia, tr 159. (5). Võ Nguyên Giáp-Từ nhân dân mà ra (1996), NXB Quân đội nhân dân, tr 212.
Nguồn QĐND : https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/ro-tam-cua-mot-thien-tai-843790