Góc làm việc chạm bạc của anh Đặng Văn Việt, thôn Thác Hùng, xã Cao Bồ.
Thợ chạm bạc người Tày đang làm họa tiết cho trang sức bạc. Dù thời gian có thay đổi nhưng những đôi tay tài hoa vẫn cần mẫn khắc tạc, biến từng miếng bạc thô thành tác phẩm tinh xảo.
Những bộ trang sức bạc đang dần thành hình. Ngày nay, nhờ áp dụng máy móc hiện đại như lò nấu điện, máy cán, máy đánh bóng... tốc độ làm ra một sản phẩm đã nhanh và đẹp mắt hơn.
Bộ trang sức bạc truyền thống của dân tộc Dao. Mỗi họa tiết vảy cá, hoa lá, cánh bướm hay đàn chim tung bay… đều mang đậm dấu ấn tâm linh và quan niệm sống về sự bình an, sung túc.
Lò đun bạc hơn 100 tuổi của ông Mua Sè Sính, dân tộc Mông ở thôn Lao Xa, xã Sà Phìn được truyền từ thế hệ cha ông để lại cho ông nối tiếp nghề chạm bạc truyền thống của gia đình.
Một bộ vòng cổ của phụ nữ dân tộc Mông vừa mới được ông Mua Sè Sính hoàn thành.
Người dân chọn mua trang sức bạc tại hội chợ. Một bộ trang sức truyền thống dành cho người phụ nữ có thể lên tới hàng chục chi tiết: Từ vòng cổ, vòng tay, nhẫn, trâm cài tóc đến dây áo, móc trầu... với giá trị từ 50 đến 60 triệu đồng.
Phụ nữ dân tộc Cờ Lao diện trang sức bạc trong dịp lễ, tết. Mỗi bộ trang sức bạc của từng dân tộc đều được chế tác thủ công, phản ánh tay nghề và gu thẩm mỹ riêng của từng tộc người.
Thiếu nữ người Dao diện trang sức bạc. Các bạn trẻ người dân tộc thiểu số ở vùng cao vẫn yêu thích những bộ trang sức bạc đi cùng các bộ trang phục truyền thống.
Phụ nữ dân tộc Bố Y ở xã Quản Bạ diện trang sức bạc trong Tết lúa mới. Chừng nào bà con còn khoác lên mình bộ váy áo truyền thống, chừng đó nghề chạm bạc vẫn sống mãi với núi rừng.
Phụ nữ dân tộc Lô Lô ở xã Lũng Cú diện trang sức bạc cùng với bộ trang phục truyền thống. Giữa sự đổi thay không ngừng của đời sống hiện đại, nghề chạm bạc nơi địa đầu Tổ quốc vẫn âm thầm tỏa sáng, như những ánh bạc lấp lánh dưới nắng cao nguyên.
Lê Hải