Nhưng đó chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ kinh, phần còn lại Phật dạy cách thức tu hành trên cả ba phương diện: thân, khẩu và ý, trong cả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Đặc biệt, Đức Phật dạy cách sám hối khi lỡ làm một việc ác:
“Sau khi ông làm xong một thân nghiệp, này Rahula, ông cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: ‘Thân nghiệp này ta đã làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ’. Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, ông biết như sau: ‘Thân nghiệp này ta đã làm. Thân nghiệp này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ’. Một thân nghiệp như vậy, này Rahula, ông cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị Ðạo sư, hay trước các vị đồng Phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ trong tương lai. Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, ông biết như sau: ‘Thân nghiệp này ta đã làm. Thân nghiệp này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc’. Do vậy, này Rahula, ông phải an trú trong niềm hoan hỷ tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp” (Kinh Trung bộ, số 61, HT.Thích Minh Châu dịch).
Đã là một chúng sinh thì không thể nào tránh khỏi những lỗi lầm do vô tình hay cố ý, cho nên sám hối là việc làm căn bản nhưng rất quan trọng, không những trong quá trình tu hành nói riêng mà còn trong việc hoàn thiện nhân cách của một người tốt nói chung. Sám hối (懺悔), tiếng Phạn là Samma, Trung Hoa dịch là Hối quá, nghĩa là tự mình biết bản thân đã từng tạo việc ác, việc không nên làm nên sinh tâm tàm quý, phát nguyện từ nay trở về sau sẽ không làm các việc ác. Việc ác được Phật dạy là “Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ”. Việc ác không chỉ khổ mình và khổ người trong hiện tại mà còn kéo dài đến nhiều kiếp về sau. Đó là kết quả của việc thiếu tỉnh lực trong suy nghĩ, dẫn đến lời nói và hành động bất thiện, đưa đến hậu quả xấu trong hiện tại và tương lai.
Như một vị vua tài giỏi, điều khiển tướng sĩ để giữ gìn các cổng thành, tránh sự xâm lược của kẻ thù, quấy phá thành trì của mình. Cũng vậy, người khéo tu tập như vị vua, thường phòng hộ các căn của mình, tránh những phiền não, nhiễm ô từ bên ngoài xâm nhập vào tâm. Vậy hành giả cần phải tu tập ngay trên sáu căn (giác quan) của mình. Ba nghiệp thân, miệng, ý là nói tổng quát, triển khai cụ thể thì tất cả mọi nghiệp thiện hay ác đều không ra ngoài sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Trong kinh Lăng nghiêm, Đức Phật cũng dạy chính sáu căn là gốc sinh tử luân hồi, cũng chính sáu căn là gốc giải thoát. Không chỉ Phật Thích Ca nói mà mười phương chư Phật đồng phóng hào quang chứng minh. Từ lời dạy của Đức Phật, cho ta thấy rằng nếu có phạm lỗi lầm thì cũng từ ngay sáu căn mà sám hối, đây là cách tu tập gần gũi, dễ ứng dụng ngay trong đời sống hàng ngày.
Cụ thể trong đời sống hàng ngày hiện nay, dù là người xuất gia hay tại gia, cũng đều có những trách nhiệm cần phải làm, đều có những mối quan hệ cần phải quan tâm. Cho nên, do vô tình hay cố ý, chúng ta không thể tránh khỏi những va chạm, những xung đột trong cuộc sống. Hành giả chân chính cần nhìn nhận rằng những sai lầm mắc phải phần lớn đều là do bản thân thiếu tỉnh giác, bị mê mờ mà gây nên, bị chi phối bởi phiền não, từ đó mà có ra những lời nói, hành động thiếu kiểm soát. Ngược lại, nếu có sự tỉnh giác, mọi việc làm chúng ta đều nhẹ nhàng, dù có khó khăn, gặp chuyện bất như ý, thì lòng vẫn an nhiên, tự tại, từ đó có những quyết định, hành động hợp tình hợp lý, đúng Chánh pháp.
Tùy trường hợp mà chúng ta áp dụng những cách sám hối phù hợp. Như trong kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Ambala, Đức Phật dạy nếu đã lỡ làm việc sai thì cần mạnh mẽ thưa trình những lỗi mình đã vô tình hay cố ý tạo ra, từ đó ăn năn, từ bỏ trong tương lai. Điều này là cơ bản trong đời sống tu tập hàng ngày, dù hành động của ta đã tạo có thể gây nên những tổn thương cho người xung quanh, gây tổn hại cho tập thể. Nhưng với tâm chân thành, ý chí mạnh mẽ, cùng với hành động phát lộ sám hối, trải qua thời gian để sửa lỗi, dần dần chúng ta cũng nhận lại sự thông cảm, tha thứ của mọi người. Chính vì thế, pháp sám hối không chỉ có lợi ích cho cá nhân mà còn là phương pháp tạo dựng sự tin tưởng, sự đoàn kết trong Tăng chúng cũng như trong tập thể. Chúng ta đều là những chúng sinh còn nhiều điều chưa hoàn thiện, đang từng bước trên con đường hoàn thiện, cho nên không thể tránh những lỗi lầm do vô ý tạo ra, những lỗi đó nếu sống trong tập thể sẽ dễ gây hiểu lầm, những mối nghi ngờ, tạo nên khoảng cách giữa các thành viên.
Tổ Quy Sơn cũng dạy: “Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận” - Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy không thấy ướt áo mà dần dần thấm nhuần. Ở trong Tăng chúng, trong một tập thể tu tập theo Chánh pháp, đó là điểm rất cần thiết cho hành giả mới bước đầu tu tập trên con đường giác ngộ. Ở trong chúng, nếu thuận theo bản ngã thích thoải mái sẽ thấy khó ở, thấy tù túng, bức bí vì không được làm những gì tùy ý, mà đều phải sinh hoạt trong nề nếp, theo thanh quy, giới luật, hễ có gì không đúng là được góp ý, nhắc nhở. Nhưng đó là cách tốt nhất để gọt giũa những cù cặn, gai góc trong tâm; nếu ở một mình sẽ không có cơ hội để bộc lộ, vì thế khó phát hiện, khó để chuyển hóa, và khó tiến bộ trên hành trình chuyển hóa nội tâm.
Chúng ta thấy, trọng tâm của việc tu là chuyển hóa nội tâm, nhận lại tánh giác nơi mình, đó mới là cách sám hối rốt ráo. Vua Trần Thái Tông dạy: “Bỏ mất bản tâm, quên ngắm trăng thật. Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm”. Như vậy, cái lỗi lớn ban sơ là do bất giác quên mất chính mình, quên mất trăng thật đang thường soi sáng thông qua sáu căn. Hành giả chưa khéo tu thì sáu căn lầm lỗi, phóng ra bên ngoài, nhận cảnh trần làm mình, nhận cái giả dối cho là thật, từ đó mắt mới đắm sắc đẹp, tai mê tiếng khen, mũi thích mùi thơm, lưỡi tìm vị ngon, thân ưa xúc chạm, ý mãi chạy nhảy. Ngay khi biết bất giác là sai, không tiếp tục chạy theo trần cảnh, đó là sám, nhớ lại chính mình, không bị cảnh chi phối, đó là hối. Vậy ngay trên một niệm khéo tu là đã sám hối, đã trị ngay tận gốc của các tội lỗi. Xét chỗ tột cùng của sự tu tập, thì dù một niệm thiện hay ác đều là trái với bản tâm vốn không một vật, đều là nhân dẫn chúng ta đi trong cõi luân hồi, mang đến quả khổ trong tương lai, dù lên cõi trời hưởng phước báu nhưng vẫn trái với mục đích giải thoát. Lỗi đó được Phật và chư Tổ dạy rằng, không chỉ trong một đời mà đã từ vô thủy, do mê lầm mà chạy theo vọng tưởng, quên mất chính mình là lỗi lầm lớn nhất. Do đó, trở lại nhận và sống được với chân tâm của mỗi người là sám hối chân thật nhất.
Để phù hợp với căn cơ của chúng sinh, với phong tục tập quán của mỗi quốc gia, xã hội mà chư vị Tổ sư đã thiết lập nhiều phương pháp tu tập - bao gồm cả pháp sám hối, sao cho phù hợp nhất để mọi người có thể ứng dụng tu tập. Vua Trần Thái Tông đã sáng tác Lục thời sám hối khoa nghi, sau này được Hòa thượng Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam kế thừa và phát huy, gom lại thành Nghi thức Sám hối sáu căn cho phù hợp với bối cảnh tu tập ngày nay. Về mặt hình thức, mỗi ngày, thông qua những lỗi lầm thuộc từng căn, hành giả tự kiểm điểm mình đã phạm những gì, từ đó ăn năn sám hối, hoặc được huynh đệ nhắc nhở cũng sẵn sàng sám hối. Về mặt nội dung, hành giả tự nhớ lại, xoay trở lại sống với tâm chân thật của mình, không mê lầm phóng niệm, chạy theo các cảnh để mất mình, đó là sám hối chân thật.
Tóm lại, sám hối có nhiều cách nhưng đều nhắm đến mục đích giúp hành giả đạt được giác ngộ, giải thoát. Tất cả đều xuất phát từ sự quyết tâm, tinh tấn của mỗi người. Chỉ có sự chân thành mới giúp hành giả ngược dòng đời trở về với chân tâm, tự mình giác ngộ, rồi giúp những người hữu duyên giác ngộ, đó cũng chính là lý tưởng cao cả của những người con Phật.
Thích Tuệ Tâm Như/Báo Giác Ngộ