Dù có nhiều dư địa để phát triển nhưng ngành thủ công mỹ nghệ vẫn gặp không ít thách thức. Ảnh: Chu Khôi
Thiếu thương hiệu riêng
Thủ công mỹ nghệ luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị gia tăng cao. Cứ 1 triệu USD xuất khẩu các sản phẩm này mang lại lợi nhuận gấp 5 - 10 lần so với nhiều mặt hàng khác. Ngành tạo việc làm cho hơn 5 triệu lao động nông thôn và đóng góp đáng kể vào ngoại tệ quốc gia.
Dù vậy, theo các chuyên gia, ngành thủ công mỹ nghệ nước nhà vẫn chưa khai thác hết dư địa vốn có.
TS Tôn Gia Hóa - Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho biết, hiện cả nước có 168 nghề truyền thống và hơn 5.400 làng nghề, nhưng gần 50 làng nghề dù đã được công nhận lại ngừng hoặc gần như không còn hoạt động. Sản xuất tại các làng nghề chủ yếu dựa vào hộ gia đình (chiếm hơn 98%), quy mô nhỏ, thiếu lao động kỹ thuật; Thu nhập lao động chỉ đạt 3,5 - 4,5 triệu đồng/tháng, chưa tạo được sức hút đối với lao động trẻ.
Bên cạnh đó, nguồn nguyên liệu sản xuất suy giảm do khai thác thiếu quy hoạch; hạ tầng làng nghề lạc hậu; khó khăn về vốn, chi phí đất và nhà xưởng khiến nhiều cơ sở không thể mở rộng hoặc tham gia cụm công nghiệp làng nghề.
Từ góc độ nghiên cứu, TS Nguyễn Thị Thu Hường (Đại học Mở Hà Nội) nhấn mạnh: Thiết kế là hạn chế lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ. Mẫu mã còn đơn điệu, ít đổi mới, phần lớn làm theo đơn đặt hàng nên thiếu tính thương mại. Điều này khiến sản phẩm khó bắt kịp xu hướng tiêu dùng, khó nâng cao giá trị gia tăng.
Đa số doanh nghiệp (DN) thủ công mỹ nghệ có quy mô nhỏ, thiếu năng lực quản lý, thiếu bộ phận marketing và nghiên cứu thị trường. Quy hoạch vùng nguyên liệu chưa hiệu quả, ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ trong các FTA là những yếu tố ngày càng quan trọng khi thị trường toàn cầu chuyển sang tiêu dùng xanh.
Bà Hường nhấn mạnh, thị trường xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đang tăng trưởng mạnh: từ 2,23 tỷ USD năm 2019 lên gần 4 tỷ USD năm 2024 và dự kiến đạt 4,5- 4,7 tỷ USD năm 2025. Tuy nhiên, để nhanh đạt mục tiêu 5 tỷ USD, ngành phải gia tăng tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao dựa trên thiết kế và thương hiệu. Việc phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Hoa Kỳ và EU cũng tiềm ẩn rủi ro, đòi hỏi đa dạng hóa thị trường và đáp ứng bộ tiêu chuẩn xanh ngày càng khắt khe.
Cần “cú hích” xúc tiến thương mại
Để thúc đẩy phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ, ông Trịnh Quốc Đạt - Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam nhấn mạnh, xúc tiến thương mại giữ vai trò then chốt giúp DN và cơ sở công nghiệp nông thôn mở rộng thị trường, đặc biệt với sản phẩm OCOP và sản phẩm làng nghề. Các cơ sở cần chú trọng xây dựng thương hiệu thông qua thiết kế logo, bao bì, website và đăng ký bảo hộ. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ cũng cần được cải tiến thường xuyên, bảo đảm phù hợp thị hiếu tiêu dùng, luôn giữ được bản sắc văn hóa nhưng vẫn mang hơi thở hiện đại.
Theo các chuyên gia, thực tế hoạt động xúc tiến thương mại vẫn còn hạn chế. Hội chợ trong nước thiếu tính chuyên nghiệp, chưa xác định rõ phân khúc khách hàng; Nhiều làng nghề chưa có thương hiệu riêng và chưa gắn kết tốt với du lịch. Do đó, để bứt phá, TS Tôn Gia Hóa đề xuất hoàn thiện chính sách theo Quyết định 801/QĐ-TTg, quy hoạch vùng nguyên liệu, ứng dụng công nghệ, nâng cao nguồn nhân lực và chú trọng xây dựng, bảo hộ thương hiệu ngành và địa phương.
PGS.TS Đặng Mai Anh, Quyền Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp nhận định, giai đoạn 2024-2028 là thời kỳ cạnh tranh khốc liệt đối với ngành hàng thủ công mỹ nghệ trên quy mô toàn cầu. Ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam muốn tận dụng cơ hội phải đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ, nâng cao chất lượng, ứng dụng nền tảng số để mở rộng thị trường.
Lê Bảo