Hơn hai thập kỷ qua, dấu chân của thầy Nguyễn Trần Vỹ – Hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học Ngọc Linh (xã Trà Linh, TP. Đà Nẵng), kiêm Chủ nhiệm CLB Kết nối yêu thương Nam Trà My đã in hằn trên những con dốc quanh co, qua bao mùa mưa rừng xối xả. Thầy đi để dựng lớp, bắc cầu, mang tri thức đến từng bản làng, biến sự tử tế thành di sản.
Từ hành trình ấy, thầy cùng các mạnh thường quân đã góp sức xây dựng hơn 60 điểm trường, nhà ở cho học sinh và giáo viên, kêu gọi hơn 18.000 phần quà hỗ trợ bà con vùng cao, với tổng kinh phí huy động vượt 100 tỷ đồng.
"Nếu ví hành trình nhân ái của mình như một loài hoa,
tôi sẽ là đóa lan rừng
âm thầm kiên cường bám đá núi, khiêm nhường nở rộ làm đẹp đời."
Tận tụy với nghề, bền bỉ với những việc làm tử tế, thầy Vỹ đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng học trò và cộng đồng. Năm 2016, thầy được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh giai đoạn 2011–2015. Đến năm 2020, thầy được Trung ương Đoàn trao Giải thưởng Tình nguyện Quốc gia và trở thành nhân vật truyền cảm hứng trong chương trình Cất cánh của Đài Truyền hình Việt Nam.
Hai năm sau, tức vào năm 2022, hình ảnh "Vỹ khùng" tiếp tục lan tỏa tại Lễ trao Giải Báo chí toàn quốc Vì sự nghiệp giáo dục Việt Nam khi thầy đạt giải "Nhân vật ấn tượng" trong tác phẩm Chuyện Vỹ khùng do Đài Phát thanh – Truyền hình Quảng Nam thực hiện.
25 năm bền bỉ cõng con chữ lên non
Tháng 9 năm 2000, sau khi ra trường, thầy Vỹ nhận công tác tại điểm trường Tu Nất (bấy giờ thuộc xã Trà Mai, huyện Nam Trà My). Do khoảng cách từ nhà tới trường chính khoảng 100 cây số, thầy phải đi 2 chuyến xe khách rồi tiếp tục "cuốc bộ" hơn 6 giờ đồng hồ mới tới nơi. Tốn thời gian đến mức như lời thầy nói "nếu vừa đi vừa nghỉ có khi mất nguyên một ngày".
Ảnh màn hình 2025-11-07 lúc 10.51.38
Đường lên tới điểm trường gập ghềnh khó đi.
Nhớ lại kỉ niệm ngày đầu đến lớp, cậu trai trẻ thất vọng khi tận mắt nhìn thấy lớp học tạm bợ dựng lên từ tre nứa với vài tấm mái tôn che nắng che mưa. Thầy Vĩ bộc bạch: "Các cháu trên này thiếu thốn đủ đường. Đến bây giờ tôi vẫn thường đùa vui rằng trường ở vùng cao là "có một ông thầy đứng trên bục và mấy đứa nhỏ ê a phía dưới là đã thành lớp học".
Khi dần gần gũi hơn với học trò và bà con nơi bản nhỏ, trong lòng người thầy trẻ ấy, tình thương đong đầy như lúa chín vừa tới vụ.
Vốn không thực sự đam mê nghề trồng người, thầy Vỹ chỉ đơn thuần là “chọn đại cái ngành sư phạm để được tiếp tục học vì nó miễn học phí” do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn. Những ngày đầu lên vùng cao dạy học, không ít lần thầy muốn bỏ về.
Thầy kể mình và các thầy cô khác phải thường xuyên dọn phân, dựng lại lớp sau mỗi kỳ nghỉ vì lớp học bị biến thành chuồng gia súc. "Nhiều lúc tôi chỉ muốn rời khỏi vùng đất nghèo nàn, xơ xác ấy. Cứ mỗi cuối tuần là tôi háo hức về nhà, và khi đã về rồi thì chẳng muốn quay lại núi nữa.
Nhìn các em, tôi tự hỏi: mình có việc làm và được trả lương đầy đủ, hà cớ gì lại buồn chán? Sao không cố gắng hơn vì các em?", thầy Vỹ bồi hồi nhớ lại.
Thế nhưng, khi dần gần gũi hơn với học trò và bà con nơi bản nhỏ, trong lòng người thầy trẻ ấy, tình thương đong đầy như lúa chín vừa tới vụ.
Giữa những phận đời lam lũ, giữa những ánh mắt trẻ thơ hồn nhiên dù thiếu thốn đủ đường, thầy dần tìm thấy lý do để ở lại. Nhiều em đói khổ, áo quần rách nát và luôn chịu cảnh "màn trời chiếu đất", nhưng vẫn đến lớp với đôi mắt trong veo và nụ cười rạng rỡ. Nhìn các em, tôi tự hỏi: mình có việc làm và được trả lương đầy đủ, hà cớ gì lại buồn chán? Sao không cố gắng hơn vì các em?", thầy Vỹ bồi hồi nhớ lại.
Thầy Vỹ chụp ảnh cùng những người bạn "tí hon".
Người dân nơi đây cũng gửi gắm vào thầy niềm tin giản dị mà sâu sắc: mong thầy dạy cho con họ cái chữ, để rồi những đứa trẻ ấy có thể thoát khỏi đói nghèo, mở ra một tương lai khác. Thầy Vỹ kể: "Có một câu chuyện khiến tôi thay đổi hoàn toàn. Hôm ấy, anh tổ trưởng sản xuất của thôn — người vẫn thường góp gạo cho thầy cô mời chúng tôi về nhà ăn cơm. Anh làm thịt một con gà, tôi bảo cho ít gạo vào nước luộc gà để có nồi cháo. Nhưng lát sau, chẳng thấy cháo đâu, cũng không có cơm, chỉ có một nồi sắn luộc. Anh cười, bảo: "Bà con chỉ ăn sắn thôi, chứ thầy cô ăn sắn không quen đâu". Lúc ấy tôi mới hiểu, những lon gạo bà con góp cho giáo viên chính là phần ăn mà họ nhường lại. Hóa ra bấy lâu nay, họ chia cho chúng tôi cả phần no của họ."
“Có những bài học chẳng đến từ bục giảng, mà được viết bằng cả tấm lòng.”
Nghe đến đây, khóe mắt tôi cay xè. Từ giây phút ấy, tôi đã hiểu vì sao thầy Vỹ lại dành cho mảnh đất này tình cảm sâu đậm đến thế. Nam Trà My với thầy Vỹ không còn là nơi "đi cho biết" mà trở thành miền đất để gắn bó và cống hiến. Giữa sương núi bảng lảng, người thầy năm nào đã tìm thấy sứ mệnh của mình: gieo chữ giữa những cuộc đời còn lắm chênh vênh, và từ đó gặt hái niềm tin, tình thương cùng sự trưởng thành trong chính trái tim mình.
Nề hà gì chuyện được và mất
"Thầy Vỹ thân mến, có câu nói rằng: Vạn vật trên đời luôn có lên có xuống, được và mất song hành. Trên chặng đường chèo lái chuyến đò tri thức, thầy cảm nhận mình đã "được" và "mất" những gì?" tôi hỏi.
Người "ăn trộm" nụ cười của đám trẻ miền cao.
Anh vui vẻ đáp: "Tôi được nhiều hơn mất chứ cậu! Qua bao năm công tác và kết nối thiện nguyện, điều quý giá nhất tôi nhận được chính là nụ cười hồn nhiên, vô tư của các em. Mỗi chuyến đi, tôi hay đùa là đi "ăn trộm" nụ cười của lũ nhóc, được đón nhận tình yêu thương từ mọi người xung quanh. Niềm vui lớn nữa là hành trình kết nối yêu thương được lan tỏa đến nhiều đồng nghiệp, các thầy cô khác cũng đang làm rất tốt việc này. Còn nếu nói về mất mát, thì có chăng chỉ là thời gian bên gia đình ít ỏi hơn một chút."
Từng bộ quần áo, bao gạo, gói bánh để mang lên cho học trò vùng cao. Ai có gì giúp được, thầy đều trân quý.
Quả thật từ quá trình làm thiện nguyện của thầy Nguyễn Trần Vỹ bắt đầu bằng những việc nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa. Thầy lặn lội xin từng bộ quần áo, bao gạo, gói bánh để mang lên cho học trò vùng cao. Ai có gì giúp được, thầy đều trân quý. "Tôi chẳng có gì cho bà con ngoài công sức. Mình góp được gì thì góp, đôi khi là hộp bánh, hộp kẹo cho mấy đứa nhỏ vui", thầy kể lại.
Năm 2014, với chiếc điện thoại cũ và sóng mạng chập chờn, thầy lần đầu lập Facebook. Từ đây, thầy tìm được những nhóm thiện nguyện khắp nơi, dần trở thành "cầu nối" giữa tấm lòng hảo tâm và những ngôi trường còn vách đất, nền nứa. Cũng trong năm đó, thầy cùng một số đồng nghiệp, cán bộ địa phương và cả những người thợ xây lập nên Câu lạc bộ Kết nối yêu thương — nơi quy tụ những con người cùng chung một ước vọng: giúp trẻ em vùng cao có một mái trường vững chãi, để con chữ không bị cuốn trôi giữa núi rừng.
"Nhìn mấy ảnh ngóng trường mới mà thương ghê," anh Vỹ chia sẻ.
Thời gian đầu, câu lạc bộ chưa có tài trợ, mỗi thành viên tự nguyện trích 100 nghìn đồng từ tiền lương ít ỏi để gây quỹ. Họ bắt đầu từ những việc giản dị: láng nền xi măng, lát lại sàn gạch cho các lớp học còn nền đất. Một số công trình đầu tiên được chia sẻ lên mạng xã hội — và từ đó, hành trình của họ lan tỏa rộng hơn, chạm đến trái tim nhiều người.
Dự án mang nước sạch về bản giúp cải thiện đời sống người dân.
Thầy Vỹ nhớ, có thời điểm các nhóm thiện nguyện về Nam Trà My mang theo hàng trăm triệu đồng để tặng quà cho học sinh. "Số tiền ấy quý lắm, nhưng quà thì chỉ vui được một thời gian. Còn trường học, nếu được xây lên sẽ là món quà còn mãi", thầy nói. Chính từ suy nghĩ đó, thầy mạnh dạn thuyết phục các mạnh thường quân dành một nửa kinh phí để dựng lại điểm trường, giúp thầy cô có nơi dạy ổn định, trò có lớp học khang trang, còn dân bản có chỗ tránh bao mùa mưa nắng.
Ngôi trường khang trang sẵn sàng đón học sinh tới lớp.
Những ngày đầu gây dựng thật gian nan. Không ai tin những người "tay ngang" có thể dựng trường giữa vùng núi hẻo lánh. Các thành viên câu lạc bộ phải chia nhóm đi bộ hàng giờ vào từng điểm trường để khảo sát, ghi hình, đăng tải lên Facebook kêu gọi sự chung tay. Rồi một ngày, phép màu xảy ra: Quỹ Thiện nguyện Vì yêu thương ở TP.HCM gửi tài trợ đầu tiên để xây điểm trường Răng Dí (xã Trà Tập). "Khi ngôi trường ấy hoàn thành, chúng tôi vỡ òa. Không chỉ vì có một mái nhà mới cho học trò, mà vì niềm tin đã được gieo lại nơi con người", thầy kể.
Từ công trình đầu tiên ấy, hành trình của "Kết nối yêu thương" như được tiếp thêm sức mạnh. Minh bạch, chân thành và tận tâm — đó là "thương hiệu" khiến ngày càng nhiều nhà hảo tâm tìm đến. Có người cam kết tài trợ cả tỷ đồng để giúp nhóm xóa dần những điểm trường tạm bợ.
Những dấu chân người thầy đi qua để lại bao niềm tin thắp sáng ước mơ cho trẻ em vùng cao.
Không chỉ dừng ở việc xây trường, đến nay mỗi khi thiên tai, lũ quét ập về, thầy Vỹ và các đồng nghiệp lại xắn quần, lội bùn cùng bộ đội và chính quyền địa phương để hỗ trợ dân bản, sửa lại những lớp học tốc mái.
"Nhiều nhà tốc mái trong đêm, thương bà con quá đi mất," anh Vỹ chia sẻ.
May mắn được tâm sự cùng anh Vỹ, tôi hiểu rằng để làm điều ý nghĩa đôi khi không cần thay đổi cả thế giới, mà chỉ cần không làm ngơ trước những em nhỏ đang cần một bàn tay giúp đỡ. Cái “khùng” của anh, hóa ra lại là cách sống tỉnh táo và nhân hậu nhất giữa cuộc đời đầy bộn bề này.
Người ta gọi thầy là "Vỹ khùng" - khi một người có nhà, có chăn ấm, đệm êm mà vẫn "ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng", rong ruổi khắp núi rừng để thắp lên ngọn nến ước mơ. Còn tôi xin được kính cẩn gọi thầy là "Vỹ khủng" vì anh đã dám làm những điều mà chẳng ai làm được.
Một số giải thưởng anh Vỹ nhận được trên chặng đường trồng người.
“Sống như những đóa hoa” là chùm bài viết nhân văn do phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân thực hiện, khắc họa chân dung những người có nghị lực phi thường đặc biệt – những con người lặng lẽ gieo hạt tri thức, lan tỏa tình yêu thương và cống hiến thầm lặng cho đời.
Mỗi nhân vật, mỗi câu chuyện trong loạt bài đều được chắt lọc từ những hành trình có thật, nơi nghị lực và lòng nhân ái tỏa sáng giữa những khó khăn, thử thách. Thông qua chùm bài, phóng viên mong muốn gửi lời tri ân sâu sắc đến những con người bình dị nhưng cao đẹp ấy – những bông hoa đời thường vẫn ngày ngày nở rộ, làm đẹp cho cuộc sống bằng chính tâm hồn và trái tim của mình.
Trọng Nghĩa